Tại Quyết định số 326, ngày 19/5/1997, Thủ tướng Chính phủ đã lấy ngày 26/12 hàng năm làm Ngày Dân số Việt Nam. Để trả lời cho câu hỏi vì sao chọn ngày 26/12 này chúng ta hãy ngược lại dòng thời gian, 48 năm trước đây để tìm hiểu về ngọn nguồn và ý nghĩa của Ngày này. 48 năm trước đây, giữa lúc đất nước còn bị chia cắt, dân tộc Việt Nam phải đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng dân tộc ở miền Nam để thống nhất đất nước, Hội đồng Chính phủ đã thông qua một Quyết định khá đặc biệt, đó là Quyết định số 216, ngày 26/12/1961, về việc hướng dẫn sinh đẻ cho nhân dân, do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký. Tính độc đáo của Quyết định này ở chỗ, trong lúc hầu như phần lớn các nước trên thế giới đều chưa hề quan tâm đến vấn đề dân số, đến yếu tố dân số trong phát triển, thì Việt Nam, một nước vừa trải qua cuộc chiến tranh 9 năm ác liệt chống thực dân Pháp, vừa mới hàn gắn các vết thương chiến tranh và đang chung sức xây dựng cuộc sống mới ở miền Bắc đất nước, đồng thời cũng phải chi viện cho đồng bào miền Nam tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc để thống nhất Tổ quốc, lại đặt vấn đề điều chỉnh việc sinh đẻ, hay nói một cách rộng hơn, điều chỉnh sự phát triển dân số cho phù hợp với sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước cho tương lai trước mắt và lâu dài.
Một đặc điểm nổi bật thứ hai của Quyết định 216-CP và tính nhân văn và tính nhân bản của văn bản pháp quy đầu tiên của Nhà nước ta về công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ) đó là trong Điều 1 của Quyết định trên đã khẳng định: “ Vì sức khỏe của người mẹ, vì hạnh phúc và hòa thuận của gia đình, vì để cho việc nuôi dạy con cái được chu đáo, việc sinh đẻ của nhân dân cần được hướng dẫn một cách thích hợp”. Tính nhân văn thể hiện rất rõ ở chỗ mục tiêu hàng đầu được nhấn mạnh tới không chỉ là những yếu tố về số lượng, mà là những yếu tố về chất lượng như sức khỏe người mẹ, việc nuôi dạy con cái... Đáng lưu ý, văn bản trên còn nhấn mạnh tới quan hệ qua lại giữa việc sinh con đẻ cái với hạnh phúc và hòa thuận của gia đình, với hàm ý rằng số con trong mỗi gia đình phải phù hợp với điều kiện sức khỏe, điều kiện kinh tế, khả năng chăm sóc và nuôi dạy thì gia đình mới hòa thuận, mới hạnh phúc.
Điều 3 của Quyết định 216-CP nêu rõ: ''Các đoàn thể quần chúng gồm Hội Liên hiệp phụ nữ, Đoàn thanh niên Lao động, Tổng Công đoàn và Bộ Y tế sẽ cùng nhau thảo luận chương trình hoạt động nhằm thực hiện tốt đẹp chủ trương trên”. Như vậy, ngay từ thủa ban đầu của Chương trình, tính xã hội hóa đã được nhấn mạnh qua việc nêu lên những đoàn thể quần chúng rộng rãi nhất và nhấn mạnh tới việc các đoàn thể quần chúng đó đại diện cho nguyện vọng và tư tưởng của người dân sẽ cùng với Bộ Y tế (cơ quan chuyên môn của Nhà ước) cùng nhau thảo luận chương trình hoạt động. Quyết định 216-CP cũng nêu lên cách làm phù hợp, ''Bước đầu cần tổ chức thực hiện việc hướng dẫn sinh đẻ trong cán bộ, công nhân, viên chức, bộ đội, sau đó sẽ rút kinh nghiệm và dần dần mở rộng trong nhân dân”.
Quan điểm chọn những đối tượng dễ chấp nhận trước để làm thí điểm từ đó rút những bài học kinh nghiệm cần thiết để nhân rộng và từng bước chuyển sang các nhóm đối tượng khác, những đối tượng khó hơn chính là một quan điểm đúng đắn, được thực tiễn chương trình ở nước ta và nhiều nước khác khẳng định. Quyết định đầu tiên của Nhà nước ta về công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình cũng khẳng định một nguyên tắc mà sau này các văn bản quốc tế cũng nhấn mạnh đó là việc cung cấp dịch vụ phải thuận lợi và phải phù hợp với yêu cầu và đặc điểm của người sử dụng.
Điều 4 của Quyết đinh nhấn mạnh: ''Bộ Y tế cần tiếp tục nghiên cứu thêm các biện pháp thích hợp nhất với hoàn cảnh sinh hoạt của cán bộ, công nhân, viên chức, bộ đội ta, nól chung với hoàn cảnh sinh hoạt của nhân dân ta; Bộ Y tế có trách nhiệm cung cấp với giá rẻ, một cách dễ dàng và thuận lợi nhất cho những người cần dùng các phương tiện có liên quan đến việc sinh đẻ có hướng dẫn”. Điều này cho đến nay vẫn giữ nguyện giá trị của nó khi chúng ta nhấn mạnh tới chất lượng của chương trình, nhất là chất lượng cung ứng dịch vụ dưới góc độ của người hưởng thụ chương trình, những người muốn sử dụng dịch vụ để thực hiện những ý định của họ về sức khỏe sinh sản một cách tự giác và tự nguyện.
Từ văn bản đầu tiên, Quyết định 216-CP ngày 26/12/1961, đến các văn bản mang tính toàn diện hơn như: Nghị quyết Hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa VII ngày 14/12/1993, Chiến lược Dân số dân số Việt Nam đến năm 2010 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 22/12/2000 tại Quyết định 147/TTg, Nghị quyết 47- NQ/TW ngày 22/3/2005 của Ban chấp hành Trung ương về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình, Pháp lệnh Dân số và Nghị định 104/NĐ-TW ... Để từng bước đưa công tác DS-KHHGĐ vào nề nếp, tạo điều kiện cho việc thông tin, giáo dục truyền thông rõ ràng, cụ thể và để có cách hiểu thống nhất về quy mô gia đình ít con, thực hiện có hiệu quả việc quản lý nhà nước bằng pháp luật đối với công tác DS-KHHGĐ, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh sửa đổi Điều 10 của Pháp lệnh dân số, và ngày 05/1/2009 Chủ tịch nước đã ban hành Lệnh về việc công bố Pháp lệnh. Pháp lệnh sửa đổi Điều 10 của Pháp lệnh Dân số có hiệu lực thi hành từ ngày 1/2/2009.
Tóm lại, đây là cả một quá trình phấn đấu gian khổ và bền bỉ của nhân dân trong lĩnh vực DS-KHHGĐ và chăm sóc sức khỏe sinh sản dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước. Từ một mức sinh rất cao với số con trung bình của một phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ và 6,39 con vào năm 1960 đến năm 1999 đã giảm xuống chỉ còn 2,33 con và đến năm 2008 là 2,08 con (đã đạt mức sinh thay thế), từ một tỷ lệ gia tăng dân số 3,93% năm 1960 đến năng 1999 chỉ con khoảng 1,51% và năm 2008 chỉ còn 1,2%; từ một đội ngũ ít ỏi những người làm công tác DS-KHHGĐ, trong đó có không ít chỉ là nghiệp dư”, thì nay Việt Nam đã có một đội ngũ chuyên môn hùng hậu và một đội quân tình nguyện có hàng chục vạn người hoạt động theo một chiến lược thống nhất. Chương trình dân số Việt Nam đã có những bước tiến quan trọng cả về chất và về lượng, các mô hình về nâng cao chất lượng dân số đang được triển hoat động có hiệu quả càng minh chứng cho việc Việt Nam đang chuyển dần từ những mục tiêu thuần túy về DS-KHHGĐ sang những mục tiêu rộng hơn về dân số - phát triển và chất lượng cuộc sống./.