Tìm kiếm tin tức
Liên kết website
Tỉnh ủy, UBND tỉnh
Sở, ban, ngành
UBND huyện, thị xã
Hội Nông dân Việt Nam
CHƯƠNG V
Ngày cập nhật 30/06/2009

NÔNG DÂN VÀ HỘI NÔNG DÂN THỪA THIÊN HUẾ

XÂY DỰNG CUỘC SỐNG MỚI

SAU NGÀY GIẢI PHÓNG 1975 - 1989

 

I. THAM GIA KHẮC PHỤC HẬU QUẢ CHIẾN TRANH, BƯỚC ĐẦU XÂY DỰNG CUỘC SỐNG MỚI (1975 - 1976)

 

1. Tình hình trong tỉnh sau ngày giải phóng

Đầu tháng 4-1975, khi Thừa Thiên Huế mới được giải phóng, Thường vụ Tỉnh ủy đã ra Chỉ thị 70/CT về “Kế hoạch ra sức khôi phục và phát triển nông nghiệp”. Chỉ thị đã phân tích 3 đặc điểm cơ bản của tình hình kinh tế nông nghệp trong tỉnh:

Một là, kinh tế Thừa Thiên Huế chủ yếu là nông nghiệp, nguồn sống chính là trồng trọt lúa và hoa màu. Mấy chục năm chiến tranh, nhiều xã, thôn bị địch triệt hạ, bị gom dân, đời sống bị đảo lộn, ruộng đất bỏ hoang nhiều, do đó nông nghiệp không phát triển, nạn thiếu đói thường xuyên xảy ra. Theo số liệu của địch đã thống kê thì hàng năm bị thiếu hụt khoảng trên 20.000 tấn gạo.

Hai là, dưới chế độ thống trị của Mỹ và tay sai, nông dân lao động bị mất quyền làm chủ ruộng mình, bị khủng bố, kềm kẹp, bắn giết tù đày, bị bọn ác ôn cướp đoạt ruộng đất, nông dân lao động cần cù làm nhiều hưởng ít, đời sống khó khăn. Nông nghiệp tuy có cải tiến về kỹ thuật, máy móc nhưng bị lệ thuộc do xăng dầu và phân hoá học nhập từ nước ngoài nên cuộc sống vẫn còn bấp bênh. Ngày nay dưới chế độ mới, nông dân lao động được giải phóng, chính quyền cách mạng là chính quyền của nhân dân. Chính quyền và các đoàn thể tạo mọi điều kiện để nông dân đoàn kết tương trợ, nỗ lực tăng gia sản xuất, giữ vững quyền làm chủ ruộng nương,  phấn khởi tin tưởng vào chế độ mới.

Ba là, đặc điểm cấy cày vụ trái ở Thừa Thiên là gối đầu với việc thu hoạch vụ mùa, thời gian cày cấy hết sức khẩn trương, làm muộn sẽ bị lụt bão, bị mất mùa. Địa phương mới được giải phóng, chưa kịp chuẩn bị, mùa gặt đã đến, tuy có thuận lợi là lúa tốt, được mùa, nhân lực có tăng thêm (ngụy quân tan rã về làng) nhưng có những khó khăn mới như chưa có phân bón hoá học, phân chuồng rất ít, xăng dầu chưa có, nông dân lao động phần lớn chưa được tổ chức vào các hình thức đổi công, tương trợ v.v..

Trên cơ sở đó, Chỉ thị xác định nhiệm vụ khôi phục và phát triển nông nghiệp là nhiệm vụ quan trọng, cấp thiết, có ý nghĩa toàn diện cả về chính trị, kinh tế và quốc phòng. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ đó, yêu cầu trước mắt là giữ nguyên canh để sản xuất kịp thời vụ, thu hoạch nhanh gọn vụ mùa và tăng gia sản xuất vụ trái, nâng lên một bước cả về diện tích và năng suất. Nỗ lực đến giữa tháng 5-1975 phải gặt xong vụ mùa song song với việc vãi má cho vụ trái, đạt cho được năng suất 3 tấn thóc/ha [1]. 

Ngày 28-4-1975, Thường vụ Tỉnh ủy ra Chỉ thị động viên nhân dân đóng góp lương thực. Mục đích của cuộc vận động là góp phần giải quyết những khó khăn ban đầu sau giải phóng, bảo đảm cung cấp lương thực cho các lực lượng cách mạng, bước đầu quản lý lương thực, chống đầu cơ tích trữ, đảm bảo đời sống bình thường của nhân dân. Kết quả, tất cả các huyện đều làm tốt cuộc vận động với số lúa thu được trong toàn tỉnh là 4.007 tấn (tỷ lệ khoảng 13% so với tổng sản lượng). Qua cuộc vận động, ý thức chính trị của quần chúng được nâng cao, đội ngũ cán bộ cấp cơ sở được rèn luyện, tạo nguồn bổ sung cho các đoàn thể cách mạng.

Qua tháng 5-1975, tháng đầu tiên sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, tình hình nông thôn đồng bằng có bước chuyển biến mới, ổn định hơn. “Lực lượng lao động được bổ sung, dân số tháng 5 tăng hơn trước ngày giải phóng, mỗi huyện trung bình trên 2 vạn người, mỗi xã tăng từ 1.000 đến 1.500 người, lực lượng nông dân kể cả tầng lớp làm nghề đánh cá, làm rừng chiếm tỷ lệ 85% dân số” [2]. Theo “Báo cáo tháng 5-1975 của Ban Chấp hành Tỉnh Hội Nông dân giải phóng Thừa Thiên Huế”, dân số toàn tỉnh là 717.447 người, trong đó 6 huyện đồng bằng có 565.475 người, nông dân trong tỉnh khoảng 500.000 người. Tổng số diện tích công, tư điền trong toàn tỉnh là 55.000 hécta, trong đó 41.000 hécta là ruộng công điền, tổng số diện tích công tư thổ trồng màu 14.000 hécta. Năm 1975, canh tác vụ mùa khoảng 42.000 hécta, số còn lại bị hoang hóa do chiến tranh, nước mặn hoặc do ruộng nằm sát đồn bốt địch.

Nông hội đã kịp thời triển khai hoạt động, phối hợp với chính quyền, ngành nông nghiệp, các đoàn thể thanh niên, phụ nữ phát động nông dân xây dựng nông thôn mới. Tỉnh Hội đã “soạn tài liệu học tập riêng cho hội viên nông Hội và Điều lệ Nông Hội đã đến từng tổ trưởng Nông hội và cốt cán trong các hội vần công, tổ sản xuất khai hoang; in viết những gương người tốt việc tốt trong phong trào lao động sản xuất để phổ biến trong nông dân”. Cuối tháng 6-1975, Nông hội tỉnh đã tổ chức hội nghị cán bộ Nông hội toàn tỉnh với thành phần là chủ trì Nông hội xã, huyện, tỉnh để sơ kết chương trình tháng 6 và 3 tháng quý II, qua đó bồi dưỡng thêm kinh nghiệm công tác và xây dựng lề lối làm việc trong hoàn cảnh mới.

2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh và Hội Nông dân

Từ ngày 21-6 đến ngày 27-6-1975, toàn thể Ban Chấp hành tỉnh Đảng bộ Thừa Thiên đã họp để quán triệt các Chỉ thị của Trung ương, đánh giá tình hình địa phương và quyết định phương hướng, nhiệm vụ chung và nhiệm vụ cụ thể 6 tháng cuối năm 1975 và cả năm 1976.

Hội nghị phân tích tình hình trong tỉnh sau ngày hoàn toàn giải phóng và chỉ ra những thuận lợi và khó khăn trong kinh tế - xã hội của tỉnh. Trên cơ sở đó, Nghị quyết của Hội nghị xác định rõ phương hướng, nhiệm vụ là:

“Phát huy chủ nghĩa anh hùng cách mạng, phát huy khí thế tiến công, tinh thần làm chủ đất nước, tinh thần tự lực cách sinh và cần cù lao động của nhân dân ta, nỗ lực phấn đấu để vượt qua những khó khăn trước mắt, tiếp tục ổn định tình hình chính trị. Thực hiện một bước cơ bản ổn định sản xuất, ổn định đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân, giải quyết tốt và triệt để nhiệm vụ cách mạng ruộng đất, thu xếp công ăn việc làm cho nhân dân thành phố, bình thường hóa mọi hoạt động kinh tế, tận dụng năng lực sản xuất hiện có, từng bước khắc phục những hậu quả do chiến tranh và chế độ cũ để lại. Khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế, trọng tâm là đẩy mạnh sản xuất lương thực, thực phẩm nhằm trước hết đáp ứng được phần lớn nhu cầu về lương thực, thực phẩm của nhân dân, của các lực lượng cách mạng trong địa phương. Đồng thời tích cực xây dựng kế hoạch và chuẩn bị mọi mặt để thực hiện kế hoạch dài hạn các năm sau theo phương hướng tiến lên chủ nghĩa xã hội” [3].

Đối với nông dân và nông thôn, Nghị quyết Hội nghị nhấn mạnh: “Đã đến lúc phải tiến hành giải quyết nốt và triệt để nhiệm vụ cách mạng ruộng đất, làm cho nông dân có ruộng cày. Khôi phục, cải tạo và phát triển sản xuất nông nghiệp là trọng tâm của công cuộc khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế. Dựa vào đặc điểm của tỉnh, phương hướng lâu dài của nông nghiệp là phải phát huy thế mạnh cả 3 vùng đồng bằng, trung du và miền núi nhằm phát triển nông nghiệp toàn diện… Coi trọng sản xuất lương thực (bao gồm lúa, ngô, khoai, sắn), cây ăn quả, cây công nghiệp có giá trị xuất khẩu, chăn nuôi, trồng cây gây rừng theo hướng tập trung, chuyên môn hóa theo vùng trên quy mô lớn. Nhanh chóng khôi phục hết diện tích canh tác, vừa thâm canh, vừa mở rộng diện tích. Dựa trên cơ sở có quy hoạch và có tổ chức chu đáo đưa mạnh dân thành phố và nông thôn đồng bằng lên mở mang vùng kinh tế mới ở trung du và miền núi. Nhanh chóng giải quyết vấn đề thủy lợi. Đẩy mạnh trồng cây ven biển, chống cát bay và trồng cây ở đồi núi chống nạn bào mòn đất.

Lương thực, thực phẩm là mục tiêu trọng điểm của toàn Đảng bộ và quân dân trong tỉnh, phải nỗ lực tập trung phấn đấu thực hiện cho kỳ được yêu cầu tự túc tại chỗ phần lớn lương thực thực phẩm. Đây là vấn đề đang chi phối không những đối với sản xuất nông nghiệp, đối với đời sống nông dân mà còn chi phối nhiều mặt đối với đời sống của công nhân, dân thành thị, cán bộ trong toàn tỉnh.

Về chính sách, trước hết phải nghiên cứu và thực hiện chính sách ruộng đất. Chia lại công điền, công thổ công bằng hợp lý, tịch thu ruộng đất của Việt gian ác ôn, có chính sách trưng thu, trưng mua, điều chỉnh đối với những người chiếm hữu nhiều ruộng đất, hạn chế và tiến đến xóa bỏ các hình thức bóc lột tô, tức” [4].

Nghị quyết chỉ rõ vai trò của Hội Nông dân: “Nông dân dưới chế độ cũ cuộc sống bị tàn phá nặng nề, bị mất ruộng đất, bị chia rẽ, có mối thù sâu với bọn ác ôn, bọn ngụy quyền. Nông hội phải là tổ chức của nông dân lao động, có nhiệm vụ giáo dục cho nông dân thấy rõ vai trò lịch sử của họ trong giai đoạn cách mạng mới, phải đoàn kết, động viên nông dân giúp nhau trong sản xuất và đời sống, làm nòng cốt trong việc thực hiện chính sách ruộng đất của Đảng và tích cực vận động phong trào đổi công, từng bước đưa nông dân vào con đường làm ăn tập thể, làm chủ tập thể. Ra sức xây dựng Nông hội và các đoàn thể quần chúng, củng cố khối đoàn kết bần cố trung nông làm cơ sở cho đoàn kết toàn dân, chuẩn bị mọi mặt đến cuối năm 1976 tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa trên quy mô lớn” [5].

Thi hành các nghị quyết của Trung ương, trên cơ sở phân tích tình hình thuận lợi, khó khăn của tỉnh và tiếp tục thực hiện Nghị quyết Tỉnh ủy tháng 6-1975, Thường vụ Tỉnh ủy đề ra nhiệm vụ năm 1976 của Thừa Thiên Huế là:

Trên cơ sở khôi phục, phát triển kinh tế và bước đầu tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật; làm cho số người có sức lao động cơ bản có công ăn việc làm, làm cho mọi gia đình có thu nhập do sức lao động của mình làm ra, ổn định được đời sống nhân dân. Tăng nhanh sản lượng lương thực, cố gắng bảo đảm phần lớn lương thực cho địa phương, cố gắng giải quyết được nhu cầu về thực phẩm tại chỗ. Kế hoạch năm 1976 là kế hoạch toàn diện, phải chú ý nông nghiệp, nghề cá, nghề rừng, thủ công nghiệp và du lịch. Trọng tâm của kế hoạch là ra sức khôi phục phát triển nông nghiệp, chủ yếu là phát triển lương thực, thực phẩm [6].

Quán triệt các Nghị quyết của Tỉnh ủy, Ban Chấp hành tỉnh Hội Nông dân giải phóng Thừa Thiên Huế xác định những chủ trương, biện pháp sau:

“Ra sức thâm canh, tăng năng suất, tăng vụ trên diện tích gieo trồng, đồng thời ra sức khôi phục đại bộ phận ruộng đất bị bỏ hoang hóa trong chiến tranh và mở rộng thêm diện tích sản xuất bằng cách lấn phá, lấn biển, khai hoang ở giáp ranh và vùng kinh tế mới một cách hợp lý, nhằm tăng diện tích bình quân đầu người lên một bước.

Nhanh chóng tăng cường cơ sở vật chất cho nông nghiệp. Trước hết là ra sức làm thủy lợi. Trong lúc chưa triển khai được các công trình lớn, phải vận động và tổ chức nhân dân làm các công trình nhỏ và vừa.

Thực hiện chính sách trợ cấp cho dân làm thủy lợi để đạt kết quả nhanh. Đưa tỷ lệ giống lúa mới lên 30-40%. Tích cực vận động làm phân, áp dụng các biện pháp kỹ thuật và nắm chắc khâu thời vụ.

Phấn đấu đạt 77.000 ha gieo trồng, 12 vạn tấn lương thực (cả lúa và màu quy thóc), năng suất lúa cả năm bình quân 17 tạ 8.

Đối với nông nghiệp, trong năm 1976 đồng thời với việc điều chỉnh ruộng đất, phát triển rộng rãi tổ đổi công và tổ chức thí điểm hợp tác xã, chuẩn bị các điều kiện để đến đầu năm sau đưa phong trào hợp tác hóa thành phong trào quần chúng rộng rãi” [7].

3. Ổn định tổ chức, bước đầu khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế và xây dựng nông thôn sau giải phóng

Sau ngày giải phóng, nhân dân Thừa Thiên Huế bước vào xây dựng quê hương với một khí thế rất phấn khởi và tự hào. Ngày 21-4-1975, ba vạn đồng bào trong tỉnh mít tinh trọng thể trước Ngọ Môn chào mừng quê hương được hoàn toàn giải phóng. Sau đó, ngày 15-5-1975, tại thành phố Huế, 5 vạn đồng bào tham dự cuộc mít tinh lớn mừng đất nước thống nhất. Các huyện trong tỉnh cũng tổ chức mít tinh trọng thể mừng đất nước, quê hương hoàn toàn giải phóng.

Ngày 15-4-1975, Ban Chấp hành Trung ương Đảng quyết định giải thể Khu ủy Trị - Thiên Huế. Tỉnh ủy Thừa Thiên được kiện toàn với 25 ủy viên. Ngoài các ban chuyên trách công tác Đảng, để giúp Tỉnh ủy nghiên cứu chỉ đạo công tác nông nghiệp và kinh tế tài chính, Thường vụ Tỉnh ủy giao trách nhiệm cho Đảng đoàn, chính quyền giúp cấp ủy làm chức năng nghiên cứu công tác nông nghiệp và kinh tài (kinh tế, kế hoạch và tài mậu) của cấp ủy.

Đến tháng 6-1975, toàn tỉnh đã hình thành hệ thống chính quyền từ tỉnh xuống 102 xã, 595 thôn với 1.889 cán bộ các cấp. Ban Chấp hành các đoàn thể, Đảng đoàn các giới như: Tỉnh Đoàn Thanh niên nhân dân cách mạng Hồ Chí Minh, Tỉnh Hội Liên hiệp Phụ nữ giải phóng, Tỉnh Hội Nông dân giải phóng, Hội Liên hiệp Công đoàn giải phóng tỉnh nhanh chóng được củng cố và bắt tay ngay vào việc.

Tính tới tháng 6-1975, tổng số ngụy quân, ngụy quyền ra trình diện trong toàn tỉnh là 40.667 người, được các cấp chính quyền phân loại và tổ chức học tập, cải tạo. Một số lượng lớn những người tham gia hoạt động cho địch sau các khóa học ngắn hạn ở địa phương đã bổ sung thêm lực lượng lao động ở nông thôn.

Tiếp sau Hội nghị Tỉnh ủy, các huyện đều tiến hành hội nghị để bàn công tác dân vận và dành riêng một ngày để bàn về công tác Nông hội, phục vụ cho nhiệm vụ trung tâm của cấp ủy. Các cấp ủy đã có sự quan tâm nhất định về Nông hội, đều đặt vấn đề sắp xếp cán bộ Nông hội cho các cấp, nhất là cấp xã. Đại bộ phận đã có cán bộ phụ trách làm công tác Nông hội ở xã, thôn, nhưng cũng có huyện vẫn chưa có cán bộ làm công tác Nông hội ở xã (Lộc Điền và Lộc Hải - Phú Lộc).

Để giải quyết lúng túng cho cán bộ xã, trong lúc tiến hành tổ chức và xây dựng tổ chức cơ sở ở thôn xã, mỗi huyện đều có chọn 1 xã, 1 thôn để tổ chức xây dựng, rút kinh nghiệm cho những xã, thôn khác trong toàn huyện.

Đến tháng 6-1975, trong 83 xã ở đồng bằng, chỉ có 23 xã có Ban Chấp hành Nông hội xã (Phú Vang 9, Phú Lộc 11, Hương Trà 2, Phong Điền 1), còn nói chung mỗi xã chỉ có 1, 2 cán bộ phụ trách nhưng lại không chuyên nghiệp.

Về tổ chức cơ sở, chỉ có 61 chi hội được tổ chức theo đúng Điều lệ (Phú Vang 12, Phú Lộc 43, Quảng Điền 1, Hương Trà 3, Phong Điền 2). Riêng Hương Thủy chưa lập được chi hội nào, mà còn giữ nguyên tổ chức nông dân chung theo kiểu ghi danh sách đoàn ngũ hóa. Trong tổng số 595 thôn, có 111 thôn có tổ chức Nông hội từ tổ đến chi hội nông dân giải phóng với số lượng 659 hội viên. Trong 6 huyện, chỉ có huyện Phú Vang có phân công cấp ủy sang phụ trách, có Ban Chấp hành gồm 9 ủy viên, còn các huyện thì chỉ 1, 2, 3 đồng chí, chưa thực sự đi sâu vào công tác vận động quần chúng nông dân [8].

Tính đến cuối năm 1975 - chỉ hơn nửa năm kể từ ngày giải phóng, những thành tựu đạt được là rất đáng kể:

Lực lượng vũ trang Quân khu 4, bộ đội địa phương và dân quân du kích khẩn trương triển khai ngay chiến dịch rà phá bom mìn, giải phóng đất đai để đồng bào trở về quê cũ yên tâm sản xuất. Đến cuối năm 1975, toàn tỉnh đã thu hồi, rà phá được 94.955 quả mìn các loại trên diện tích 810 km2, giải phóng 22.367 ha đất.

Trong hoàn cảnh mới giải phóng còn nhiều khó khăn, chính quyền cách mạng đã có nhiều cố gắng trong việc cung cấp trên 200 tấn phân bón hóa học, 75 tấn thuốc trừ sâu, 2.000 tấn xăng, dầu, 28 máy bơm và 10 máy cày cho các huyện để kịp canh tác.

Nông dân trong tỉnh đã phấn đấu gieo trồng hết diện tích vụ mùa, phục hồi một phần quan trọng ruộng đất hoang hóa ở những đồng ruộng tốt, làm kịp thời vụ, đồng thời tăng gia sản xuất hoa màu, đẩy mạnh chăn nuôi gia súc, gia cầm. Thu hoạch vụ đầu sau giải phóng được mùa, nông dân phấn khởi đóng góp nghĩa vụ với Nhà nước. Đến lúa vụ trái, tuy bà con tiến hành đúng thời gian, lúa phát triển tốt nhưng lại mất mùa vì thời tiết không thuận. Sau đó, khi nông dân xúc tiến làm đất, đẩy mạnh sản xuất rau màu sau vụ trái bị thất bát thì ngày 17, 18, 19-10-1975 xảy ra trận lụt lớn trên khắp toàn tỉnh, gây “thiệt hại to lớn về nhà cửa, giống má, hoa màu, gia súc và một số nhân mạng. Tiếp theo việc mất mùa vụ 8 vừa qua, trận lụt này dồn thêm những hậu quả chưa thể lường hết được” [9]. 

Trong hoàn cảnh đó, chính quyền cách mạng và nhân dân trong tỉnh đã nỗ lực rất lớn, bước đầu đạt được những thành tựu quan trọng: đã thu xếp công ăn việc làm cho khoảng 1 vạn người, đưa lên vùng kinh tế mới được hơn 2 vạn người, 1,5 vạn dân ở thành phố về sản xuất ở nông thôn, đẩy lùi được tình trạnh đói kém, khôi phục nhanh chóng sinh hoạt bình thường sau khi giải phóng, khắc phục được hậu quả nghiêm trọng của trận lụt lớn tháng 10-1975. Số lượng dân phải cứu đói có giảm. Nhu cầu tối thiểu về lương thực, thực phẩm cơ bản đảm bảo. Đời sống nhân dân ổn định dần. Trong nông nghiệp, đã khôi phục hàng chục ngàn mẫu ruộng đất bị bỏ hóa, tăng diện tích vụ trái lên 50%, vụ mùa lên 21%; diện tích sản xuất giống lúa mới đạt 32%; một số công trình thủy lợi nhỏ được xây dựng.

Trong đợt thí điểm thực hiện chính sách ruộng đất trong 22 xã gồm 147 thôn, đã nắm được 19.606 mẫu ruộng đất công, ruộng đất của Việt gian ác ôn, ruộng đất hiến của địa chủ, chia thành 101.437 định suất cho 1.836 tập đoàn sản xuất và đào tạo được 5.423 cán bộ tập đoàn.

Qua việc thực hiện chính sách ruộng đất và tổ chức các tập đoàn sản xuất, đã nâng cao giác ngộ cho nông dân lên một bước, bước đầu củng cố được bộ máy chính quyền và các tổ chức quần chúng ở xã, thôn. Nông dân đã thấy rõ sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với đời sống của họ. Các tập đoàn sản xuất đã có tác dụng tích cực trong khai hoang, làm thủy lợi, làm giống lúa mới, cày cấy giúp đỡ nhau làm lại nhà cửa sau trận lụt.

Đã đào tạo được một số cán bộ, bồi dưỡng được một ít cốt cán, củng cố phát triển các đoàn thể. Nông hội có 14.831 hội viên, trong đó có 7.934 cán bộ Nông hội và tập đoàn sản xuất. Tuy nhiên, tỷ lệ quần chúng vào đoàn thể còn rất thấp. Nông hội mới có 218 chi hội thôn trong tổng số 489 thôn, 11 xã chưa có Nông hội.

Ở miền núi, sản xuất đảm bảo chỉ tiêu về diện tích, năng suất có tăng hơn trước. Phong trào học tập làm theo kỹ thuật mới có chuyển biến bước đầu. Đồng bào đã tích cực làm ruộng nước, làm đất khô, giảm dần việc phá rừng làm rẫy. Tổ đổi công, hợp tác xã được củng cố và nâng dần trình độ quản lý lên một bước. Đời sống nhân dân ổn định, dân ăn no. Nhà cửa ổn định, ăn ở sạch sẽ hơn. Tình hình miền núi đã có những đặc điểm mới: từ chỗ chỉ có người Thượng là chính, nay đã có một số rất lớn người Kinh, từ chỗ mọi hàng hóa đều thực hiện chế độ cung cấp, nay thực hiện chế độ trao đổi hàng hóa v.v..[10]

Vượt qua những khó khăn lớn và bất ngờ của thiên tai như bão lụt nghiêm trọng, rét kéo dài, nhân dân trong tỉnh đã từng bước khắc phục những hậu quả của chiến tranh, bước đầu khôi phục sản xuất nông nghiệp.

Tính đến cuối tháng 2-1976, toàn tỉnh đã cấy xong toàn bộ diện tích vụ chiêm xuân 1975-1976 đạt 31.173 hécta cả đồng bằng miền núi và vùng kinh tế mới. So với diện tích kế hoạch dự kiến là 28.000 hécta đã vượt 3.173 ha. Huyện nào cũng vượt diện tích. Diện tích lúa mới cũng tăng so với kế hoạch từ 5.500 ha trong kế hoạch lên 7.803 ha, đạt 29,3% [11]. Phục hóa, khai hoang được 3.700 ha đất trồng trọt, tăng 50% diện tích vụ trái, 21% diện tích vụ mùa. Diện tích trồng màu đạt mức kế hoạch (15.000 ha) và có khả năng vượt mức đó. Huy động được mấy chục vạn ngày công và hoàn thành được hàng chục công trình thủy lợi.

Trong quan hệ sản xuất, đã sơ bộ điều chỉnh ruộng đất ở nông thôn, tổ chức nông dân từng bước đi vào con đường làm ăn tập thể. Qua những lần rút kinh nghiệm, uốn nắn về chủ trương và chỉ đạo thực hiện, việc điều chỉnh ruộng đất và vận động nông dân vào các tổ đổi công và làm thí điểm hợp tác xã đã đem lại kết quả tốt, bước đầu phát huy tác dụng tích cực, chuẩn bị điều kiện để tiến tới phong trào hợp tác hóa nông nghiệp rộng rãi trong những năm sau [12].

Ngày 25-4-1976, nhân dân Thừa Thiên Huế nô nức đi bỏ phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội. Tổng số cử tri đi bầu đạt tỷ lệ 99,57%. Đại biểu trúng cử là Hoàng Anh, Lê Tự Đồng, Nguyễn Húng, Tôn Thất Tùng, Hồ Đức Vai, Hòa thượng Thích Đôn Hậu, các bà Phan Thị Thanh Nhàn, Nguyễn Đình Chi.

Tóm lại, cho đến trước khi hợp tỉnh, quân và dân Thừa Thiên Huế đã phát huy truyền thống anh dũng và bất khuất trong chiến đấu, với tinh thần tự lực tự cường, nỗ lực cao độ trong xây dựng quê hương mới, đã tích cực khắc phục hậu quả chiến tranh, bước đầu khôi phục và phát triển nền kinh tế nông nghiệp, làm nên những thành tựu rất có ý nghĩa. Tuy rằng cuộc sống của người nông dân vẫn còn nhiều khó khăn, thậm chí bị thiếu đói vào lúc giáp hạt, nhưng từ sự yên bình của làng xóm, sự chăm lo của các cấp chính quyền và đoàn thể, mọi người đều vững vàng một niềm tin vào một ngày mai sẽ tốt đẹp hơn.  

II. NÔNG DÂN THỪA THIÊN HUẾ TRONG TỈNH BÌNH TRỊ THIÊN (1976 - 1989)

1. Giai đoạn 1976 - 1980

Ngày 20-9-1975, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 245, quyết định hợp nhất ba tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên và khu vực Vĩnh Linh thành tỉnh Bình Trị Thiên. Ngày 6-3-1976, Ban Bí thư ban hành Quyết định 2603 QN-NS/TW chỉ định Ban Chấp hành tỉnh Đảng bộ Bình Trị Thiên gồm 39 ủy viên chính thức do đồng chí Nguyễn Hữu Khiếu làm Bí thư. Ngày 15-4-1976, Tỉnh ủy Bình Trị Thiên ra Chỉ thị số 293-CT/TU về việc hoàn thành hợp nhất tỉnh. Thường vụ Tỉnh ủy phân công phụ trách khối chính quyền khẩn trương xúc tiến việc hình thành ủy ban nhân dân cách mạng tỉnh, hình thành các ty và các phòng chuyên môn trực thuộc chính quyền tỉnh. Ngày 1-5-1976, tại Quảng trường Phu Văn Lâu, Ủy ban nhân dân cách mạng tỉnh Bình Trị Thiên do Nguyễn Húng làm Chủ tịch ra mắt trước toàn thể đồng bào và cán bộ trong tỉnh.

Xuất phát từ những đặc điểm của Thừa Thiên Huế trong tỉnh Bình Trị Thiên hợp nhất, Tỉnh ủy Bình Trị Thiên đã có những chỉ đạo cụ thể về triển khai thực hiện các nhiệm vụ đối với khu vực Thừa Thiên Huế như sau:

Tập trung khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế, phát triển văn hóa, ổn định và chăm lo đời sống nhân dân. Trọng tâm của nhiệm vụ là khôi phục lại sản xuất nông nghiệp, cố gắng giải quyết vấn đề lương thực và thực phẩm, cải thiện nơi ăn chốn ở cho nhân dân, góp phần ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội. Trong nông nghiệp, chú trọng tháo gỡ bom mìn, khai hoang phục hóa và làm thủy lợi; coi thủy lợi là vấn đề sống còn đối với nền sản xuất nông nghiệp ở khu vực Thừa Thiên Huế. Kết hợp bố trí, sắp xếp lại lao động với giải quyết công ăn việc làm cho nhân dân, vận động và tổ chức đồng bào đi xây dựng vùng kinh tế mới, nhất là vùng đông dân cư ở đồng bằng và thành phố [13].

Ngày 24-5-1976,  Ban Chấp hành Tỉnh Đảng bộ Bình Trị Thiên ra thông báo về việc tiến hành hợp nhất các tổ chức Hội Nông dân trên địa bàn tỉnh, theo đó, cần tiến hành hội nghị để bàn việc hợp nhất Hội Nông dân giải phóng Thừa Thiên, Quảng Trị và Hội đồng Nông dân tập thể Quảng Bình thành một tổ chức vào khoảng đầu tháng 6-1976, với yêu cầu sau:

Thống nhất về chức năng, nhiệm vụ và cơ cấu tổ chức của Hội Nông dân và tổ chức Đảng đoàn nông vận tỉnh Bình Trị Thiên, sơ bộ đánh giá tình hình công tác và căn cứ theo nghị quyết của Tỉnh ủy Bình Trị Thiên đề nghị về chương trình công tác trước mắt và sáu tháng cuối năm.

Đề nghị chính thức thành lập Đảng đoàn nông vận và Ban Chấp hành Hội nông dân tỉnh Bình Trị Thiên.

Để chuẩn bị tiến hành hợp nhất, Thường vụ Tỉnh ủy chỉ định các đồng chí sau vào Ban trù bị: đồng chí Nguyễn Mạnh Can, Phó trưởng Ban Nông nghiệp Tỉnh ủy Quảng Bình cũ làm triệu tập viên, đồng chí Lê Viết Phong, Phó Bí thư Nông hội Thừa Thiên và đồng chí Lê Dư, Phó Bí thư Nông hội Quảng Trị [14].

Sau đó, ngày 28-6-1976, Ban Chấp hành tỉnh Đảng bộ Bình Trị Thiên ra Quyết định số 14, thành lập các Ban, bộ phận thuộc Hội Nông dân tỉnh Bình Trị Thiên gồm: Ban tổ chức, Ban tuyên huấn, Bộ phận kiểm tra và Văn phòng hành chính quản trị. Mỗi phòng, bộ phận có 1 trưởng, 1 phó và một số cán bộ nhân viên giúp việc. Số lượng cán bộ nhân viên mỗi ban, bộ phận do Hội Nông dân tỉnh căn cứ vào chức năng nhiệm vụ và năng lực chuyên môn của cán bộ mà bố trí thích hợp, đảm bảo bộ máy gọn nhẹ, có chất lượng cao. Tổng số biên chế ấn định cho các ban, bộ phận trên (kể cả lãnh đạo) là 30 người (chưa kể khung trưởng). Hội Nông dân tỉnh có trách nhiệm hướng dẫn thực hiện chức năng, nhiệm vụ cụ thể cho mỗi ban, bộ phận [15].

Ngày 3-1-1977, Ban Chấp hành tỉnh Đảng bộ Bình Trị Thiên họp và ra nghị quyết về tổ chức công tác tuyên truyền Nghị quyết Đại hội IV của Đảng trong toàn Đảng bộ và nhân dân; phát huy thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử bầu Quốc hội, sớm tổ chức bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp, tăng cường bộ máy chính quyền từ cơ sở đến huyện, thành và tỉnh; làm cho bộ máy chính quyền thực sự là của dân, do dân, vì dân; tích cực củng cố và phát triển các tổ chức đoàn thể quần chúng (công đoàn, nông hội, đoàn thanh niên, phụ nữ…); không ngừng nâng cao trình độ chính trị, tư tưởng, văn hóa và chăm lo đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ và nhân dân bằng cách tổ chức cho người lao động có công ăn việc làm ổn định [16].

Thực hiện chủ trương của đại hội Đảng các cấp, khắp nơi trong tỉnh đã phát động một phong trào thi đua lập công như phong trào làm thủy lợi, khai hoang trồng màu... Huyện Hương Thủy xây dựng một cánh đồng 108 ha đạt năng suất 12 tấn/ha, một cánh đồng 144 ha đạt năng suất 10 tấn/ha. Huyện Phú Lộc đào tạo 600 cán bộ làm ruộng cao sản v.v..

Trong cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân ngày 7-11-1976 có 98% cử tri đi bỏ phiếu, bầu 10.395 đại biểu vào hội đồng nhân dân các phường, xã, hầu hết đều đảm bảo tiêu chuẩn (trong đó tỷ lệ nữ chiếm 28,77%; cán bộ trẻ 38,4%; đảng viên 34,1% …). Sau đó, hội đồng nhân dân xã và khu phố đã họp và bầu Ủy ban nhân dân các xã và khu phố.

Tiếp đến, Hội đồng Chính phủ ban hành Quyết định số 62-CP, ngày 11-3-1977, hợp nhất một số huyện ở tỉnh Bình Trị Thiên, trong đó, hợp nhất huyện Phú Lộc, huyện Nam Đông và các xã Vinh Xuân, Vinh Thanh của huyện Phú Vang thành một huyện, lấy tên là huyện Phú Lộc. Hợp nhất huyện Hương Thủy và huyện Phú Vang thành một huyện, lấy tên là huyện Hương Phú. Hợp nhất huyện Phong Điền, huyện Quảng Điền và huyện Hương Trà thành một huyện, lấy tên là huyện Hương Điền.

Như vậy khu vực Thừa Thiên Huế gồm có thành phố Huế, ba huyện đồng bằng Hương Điền, Hương Phú, Phú Lộc và một huyện miền núi A Lưới. Trong bối cảnh thành lập tỉnh và huyện mới, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Trị Thiên lần thứ I được tiến hành với hai vòng: Vòng 1 họp từ ngày 11 đến ngày 23-11-1976, vòng 2 họp từ ngày 19 đến ngày 23-5-1977. Tham dự đại hội có 600 đại biểu chính thức thay mặt cho hơn 5 vạn đảng viên trong toàn Đảng bộ.

Về phương hướng, nhiệm vụ kế hoạch 5 năm 1976-1980, Đại hội chỉ rõ:  tập trung sức phát triển nông nghiệp, bảo đảm nhu cầu lương thực cho người và chăn nuôi, hoàn thành nghĩa vụ đối với Nhà nước, sớm ổn định đời sống nhân dân, đồng thời làm cơ sở cho công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phát triển. Tập trung lực lượng đẩy mạnh sản xuất toàn diện, phát triển cân đối giữa trồng trọt và chăn nuôi, kiên quyết phấn đấu trong vài năm tới bảo đảm được nhu cầu về lương thực và thực phẩm cho người, cho chăn nuôi và có dự trữ.

Để thực hiện hiệu quả mục tiêu phát triển nông nghiệp, cần tập trung thực hiện 5 nhiệm vụ: đảm bảo thực phẩm cho toàn xã hội; đảm bảo cung cấp nguyên liệu nông sản, lâm sản, hải sản cho công nghiệp; tăng nhanh nguồn hàng xuất khẩu; tăng năng suất lao động và phân bố lại lao động; tổ chức lại nông nghiệp trên địa bàn huyện theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở đó tích cực củng cố, tăng cường hợp tác xã và nông trường, lâm trường quốc doanh, căn bản hoàn thành hợp tác hóa nông nghiệp ở phía nam [17].

Trong khoảng thời gian này, Tỉnh ủy đã ra Chỉ thị số 10, ngày 8-3-1977 và Chỉ thị số 17, ngày 9-7-1977 về tiến hành phân công, phân cấp, tăng cường cấp huyện và mở rộng làm thí điểm tổ chức lại sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện, chuyển huyện từ cấp trung gian hành chính thành cấp kế hoạch, vừa quản lý hành chính, vừa quản lý kinh tế, đồng thời là trung tâm trang bị kỹ thuật cho các hợp tác xã, các tổ chức làm ăn tập thể khác và là một cứ điểm để tiến hành 3 cuộc cách mạng ở nông thôn; trên cơ sở đó phát triển các đoàn thể quần chúng, đẩy mạnh phong trào thi đua lao động sản xuất, thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”.

Ngày 17-10-1977, Ban Chấp hành tỉnh Đảng bộ Bình Trị Thiên ra Quyết định số 453 về việc thống nhất Hội Nông dân tập thể tỉnh và Ban Nông nghiệp Tỉnh ủy. Theo đó, thống nhất tổ chức Hội Nông dân tập thể tỉnh và Ban Nông nghiệp Tỉnh ủy thành một cơ quan; về mặt Đảng, bộ phận nông vận là Thường trực của Hội đồng Nông dân tập thể tỉnh.

Chức năng, nhiệm vụ của bộ phận nông vận do Ban Nông nghiệp Tỉnh ủy nghiên cứu xây dựng theo sự hướng dẫn của Ban Nông nghiệp Trung ương. Thường vụ Tỉnh ủy chỉ định đồng chí Lê Tích (Sáu), Phó Trưởng ban Nông nghiệp Tỉnh ủy, phụ trách công tác nông vận; đồng thời giữ chức Bí thư Hội đồng Nông dân tập thể tỉnh. Ban Nông nghiệp Tỉnh ủy và Hội đồng Nông dân tập thể tỉnh cùng với Ban Tổ chức Tỉnh ủy khẩn trương sắp xếp ổn định tổ chức để triển khai tốt mọi hoạt động của Ban [18].

Tiếp theo, ngày 12-12-1977, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 24-CT/TW về việc tăng cường công tác nông hội ở các tỉnh miền Nam. Chỉ thị nêu rõ:

- Từ ngày miền Nam được giải phóng, Nông hội phát triển đều khắp, đã tích cực vận động nông dân, thi hành các chính sách của Đảng và Nhà nước ở nông thôn, góp phần đẩy mạnh phong trào thủy lợi, phát triển sản xuất, làm nghĩa vụ đối với Nhà nước, tăng cường đoàn kết trong nông dân, xây dựng chính quyền, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự xã hội ở nông thôn. Tuy vậy, công tác Nông hội chưa có chuyển biến mạnh mẽ gắn liền với nhiệm vụ cải tạo và phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.

- Cho đến khi hoàn thành cải tạo nông nghiệp, đưa giai cấp nông dân cá thể tiến lên thành giai cấp nông dân tập thể xã hội chủ nghĩa, Nông hội có vị trí rất quan trọng. Nông hội là tổ chức chính trị của giai cấp nông dân; Đảng thông qua tổ chức Nông hội để vận động nông dân tiến lên con đường xã hội chủ nghĩa. Nông hội là tổ chức nòng cốt để vận động nông dân tăng cường đoàn kết, nâng cao ý thức và phát huy quyền làm chủ tập thể, thực hiện ba cuộc cách mạng trong nông thôn.

Nông hội có nhiệm vụ giáo dục nông dân nâng cao lòng yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội, vận động nông dân ra sức khôi phục và phát triển sản xuất nông nghiệp, xây dựng lại xã ấp, tổ chức tốt đời sống và làm tốt nghĩa vụ đối với Nhà nước; xoá bỏ các tàn dư phong kiến và các thủ đoạn bóc lột, đầu cơ trong nông thôn, vận động và tổ chức nông dân đi vào các hình thức làm ăn tập thể, đưa nông thôn tiến nhanh và tiến vững chắc trên con đường hợp tác hoá nông nghiệp và sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.

Phải phát huy vai trò của Nông hội trong công tác tư tưởng, làm cho nông dân thấy rõ tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội, vạch rõ những nhược điểm cơ bản của kinh tế cá thể, xây dựng ý thức làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa trong sản xuất, trong đời sống ở nông thôn, làm cho nông dân hiểu rõ và tin tưởng vào cách làm ăn tập thể, thông suốt đường lối chính sách của Đảng, phấn khởi gia nhập và kiên trì xây dựng hợp tác xã.

- Tích cực xây dựng và củng cố Nông hội về tổ chức, trước hết đẩy mạnh việc phát triển hội viên, thu hút được đại bộ phận nông dân lao động vào Hội. Cần kết nạp vào Hội tất cả nông dân lao động và những người lao động khác ở nông thôn (có quyền công dân) tán thành mục đích của Hội và sẵn sàng hoạt động cho Hội.

- Cần tổ chức tốt Đại hội đại biểu Nông hội từ cơ sở đến cấp tỉnh, nhằm kiện toàn cơ quan lãnh đạo các cấp của Nông hội, phát động phong trào nông dân đi vào làm ăn tập thể, chuẩn bị tiến tới cao trào hợp tác hoá nông nghiệp, thi đua lao động sản xuất, tiết kiệm, thực hiện tốt nghĩa vụ bán lương thực, thực phẩm cho Nhà nước và các chủ trương, chính sách khác của Đảng và Nhà nước ở nông thôn.

- Công tác nông vận là một công tác lớn, tất cả các ngành của chính quyền và các đoàn thể quần chúng đều có trách nhiệm thực hiện theo chức năng của mình, nhưng Nông hội có vị trí nòng cốt. Các cấp uỷ Đảng phải tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo Nông hội, phối hợp chặt chẽ Nông hội với các ngành có liên quan để thực hiện tốt công tác nông vận của Đảng [19].

Trong bối cảnh hợp nhất tỉnh và huyện, dưới sự chỉ đạo quyết liệt của Đảng bộ, chính quyền các cấp và Hội Nông dân, nông dân trong tỉnh nói chung và nông dân khu vực Thừa Thiên Huế nói riêng đã tiếp tục tiến công vào mặt trận nông nghiệp, làm nên những thành tựu bước đầu rất có ý nghĩa.

Về vấn đề ruộng đất và xây dựng tập đoàn sản xuất, hợp tác xã nông nghiệp, ở các huyện phía Nam sau ngày giải phóng, “chúng ta đã không chia ruộng đất công cho từng hộ nông dân, mà giữ lại thành sở hữu tập thể, làm cơ sở để tập hợp nông dân vào làm ăn tập thể là sáng tạo. Chỉ trong hơn 1 năm, 85% nông dân đã vào tập đoàn, hợp tác xã nông nghiệp với 85% trâu bò, trên 62% ruộng đất và hàng ngàn loại máy được tập thể hóa, căn bản xóa bỏ tàn tích phong kiến về ruộng đất là nhanh và cơ bản là tốt, là một thắng lợi có ý nghĩa chính trị lớn. Chính nhờ vậy mới tạo được một sức mạnh to lớn để khôi phục sản xuất, để xây dựng một số cơ sở vật chất kỹ thuật bước đầu trong nông nghiệp, nhất là đẩy mạnh tốc độ khai hoang, làm thủy lợi, kết hợp một bước tập thể hóa với thủy lợi hóa, kết hợp cải tạo xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp với việc tổ chức lại sản xuất trên địa bàn huyện trong một số khâu” [20].

“Các tập đoàn và hợp tác xã tiến hành sản xuất theo hướng kế hoạch Nhà nước, phân phối chủ yếu theo lao động, quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa căn bản được hình thành, mặc dầu trình độ quản lý còn đơn giản, quy mô nhỏ, nhưng nhiều tập đoàn sản xuất và hợp tác xã đã mang tính chất hợp tác bậc cao. Nhìn chung, sản xuất được phát triển, đời sống nông dân được cải thiện một bước, truyền thống đoàn kết, chiến đấu, sản xuất, tình hữu ái giai cấp trong nông thôn được phát huy với tinh thần làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, bộ mặt nông thôn đã có những đổi mới bước đầu” [21].

Trong sản xuất vụ Đông Xuân 1976-1977, hầu hết các huyện, thành phố và thị xã đều tăng diện tích gieo trồng hơn vụ Đông Xuân trước, trong đó huyện Hương Điền tăng 5.823 ha. Năng suất đạt 20,26 tạ/ha và tổng sản lượng thực hiện được 168.197 tấn, tương đương với Đông Xuân 1975-1976 là vụ được mùa. Riêng thành phố Huế đạt 27,52 tạ/ha.

Việc thực hiện các biện pháp kỹ thuật đã có những bước tiến bộ. Hương Phú có nhiều ruộng sâu cũng tích cực chống úng, cấy 60-70% giống lúa mới. Nhiều xã, tập đoàn sản xuất ở phía nam đã cấy lúa mới với tỷ lệ từ 80 đến 90%.

Như Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ nhất đã nêu rõ “Đẩy mạnh thâm canh cả lúa và màu, xem màu ngang lúa”, từ đầu vụ Đông Xuân, nhiều nơi đã mở chiến dịch khai hoang trồng màu với khí thế thi đua sôi nổi, đưa tổng số diện tích màu đã trồng lên 68.500 ha, tăng hơn vụ Đông Xuân trước 1,5 lần, vượt kế hoạch Trung ương giao 24,6%, xấp xỉ đạt kế hoạch phấn đấu của tỉnh. Sắn trồng được 32.000 ha, vượt kế hoạch 11% và tăng hơn vụ Đông Xuân trước 71%, bước đầu đã hình thành một số vùng trồng sắn tập trung. Ngô, kê và khoai các loại đều tăng hơn vụ Đông Xuân trước. Cây thực phẩm các loại trồng được 6.072 ha, đạt 79% kế hoạch và tăng hơn vụ trước 10%. Khai hoang được 27.000 ha, đạt 78% so với kế hoạch và hơn vụ Đông Xuân trước 61%.

Nhiều huyện có phong trào khai hoang trồng màu khá và đã có kết quả lớn, trong đó huyện Hương Điền tăng hơn vụ Đông Xuân trước 4.876 ha, huyện Hương Phú tăng 3.002 ha.

Từ đầu tháng đến giữa tháng 8-1977, thời tiết lại nắng hạn gay gắt, mức nước các triền sông xuống thấp chưa từng thấy, các hồ chứa nước hầu hết bị khô cạn, độ ẩm không khí thấp và lượng bốc hơi rất cao.

Với tinh thần phấn đấu quyết liệt, không lùi bước trước hạn hán gay gắt, nhằm vượt chỉ tiêu 50 vạn tấn lương thực cả năm và hưởng ứng cuộc phát động của Nông hội với chủ đề: “nông dân làm chủ, trận địa là ruộng đồng”, đến ngày 31-8-1977, nông dân trong tỉnh đã gieo cấy được 64.600 ha diện tích lúa vụ mùa, đạt 78,8% kế hoạch. Trong đó lúa vụ 8 gieo cấy 39.958 ha, đạt 78.5%, so với vụ 8 năm 1976 sụt hơn 5.000 ha. Lúa vụ 10 được 24.650 ha, đạt 77,9% (trong đó huyện Hương Điền đạt 84%, huyện Phú Lộc đạt 79%). Các huyện, thị do diện tích ít đã cố gắng hoàn thành vượt mức nhiệm vụ: A Lưới đạt 106%, Huế 105%. Trong năm 1977 đã đưa tỷ trọng giống lúa mới lên 52%, có địa phương lên 70 - 80%, tạo nên những đơn vị có năng suất lúa cao 5 tấn/ha/năm.

Do hạn hán quá lâu nên có 14.764 ha vụ 8 đã hoàn thành khâu làm đất nhưng không cấy được. Trên diện tích đã cấy có 4.280 ha bị hạn không có nước và 7.297 ha bị sâu bệnh (tập trung ở Hương Điền, Hương Phú).

Trước tình hình đó, Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh đã phát động chiến dịch trồng rau màu hè thu đông với mức phấn đấu là 5 vạn ha. Hưởng ứng chiến dịch, tất cả các huyện và các xã đều lập ban chỉ đạo màu. Nhiều huyện có biện pháp kiên quyết giữ lại giống khoai, giống sắn, tìm mọi cách nhân giống nhanh. Đến ngày 25-8-1977, toàn tỉnh đã gieo trồng được 11.000 ha rau, màu và một số cây đậu đỗ khác, trong đó khoai lang trồng lấy củ được 5.000 ha, sắn gần 2.000 ha.

Đến ngày 30-7-1977, số lương thực đã nhập kho được 28.080 tấn, đạt 40% kế hoạch giao đầu vụ, huyện Triệu Hải dẫn đầu toàn tỉnh đạt 8.920 tấn (64% kế hoạch). Một số huyện khác đạt còn thấp [22].

Đến tháng 9-1977, nhiều trận bão liên tiếp kèm theo mưa to, gây lũ lụt ở nhiều nơi, nhưng với quyết tâm lớn của toàn dân, đã thu được kết quả tương đối khá. Lúa vụ 8 gieo trồng được 39.898 ha, đạt 78,2% kế hoạch. Lúa vụ 10 được 25.776 ha, đạt 83,1% kế hoạch. Mặc dù cơn bão số 7 và số 8 (năm 1977) đã làm cho nước thủy triều dâng cao, nước mặn ngập 9.817 ha lúa và 1.269 ha màu [23], nhưng đến ngày 30-8-1977 đã thu hoạch 8.800 ha, nhiều nơi đạt năng suất khá.

Trong điều kiện thời tiết không thuận, tổng sản lượng lương thực năm 1977 vẫn đạt trên 40 vạn tấn, so với năm 1976 tăng 5 vạn tấn. Tỷ trọng màu cũng tăng nhanh, từ 20% (1975) lên 40% (1977). Sản lượng màu tăng nhanh đã quyết định tốc độ tăng nhanh của sản lượng lương thực. Đây là một thắng lợi rất cơ bản, có ý nghĩa quan trọng cả về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Nhân dân càng thêm tin tưởng vào phương hướng giải quyết vấn đề lương thực tại chỗ, bước đầu khắc phục được tư tưởng ỷ lại, trông chờ nguồn lương thực của Nhà nước. Nhờ đẩy mạnh sản xuất màu, rau và thực hành tiết kiệm, đời sống nhân dân được ổn định hơn so với năm 1976.

Năm 1977 làm nghĩa vụ lương thực tăng 10.000 tấn. Chi viện của Trung ương đối với tỉnh giảm 12.000 tấn. Chăn nuôi phát triển, đàn lợn tăng 19%, đàn trâu tăng 8%, đàn bò tăng 11%. Phát triển mạnh màu đã mở ra một triển vọng lớn để đưa chăn nuôi thành ngành chính, phục vụ tốt yêu cầu thâm canh, đồng thời kết hợp công nghiệp với nông nghiệp, phát triển nhanh công nghiệp chế biến thực phẩm và xuất khẩu.

Phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, phong trào lao động sản xuất đi vào nề nếp, có tổ chức, có kế hoạch, tạo ra những chuyển biến tốt. Một số địa phương nêu cao tinh thần tự lực tự cường, chủ động, sáng tạo, dám làm, dám chịu trách nhiệm, không bó tay trước khó khăn, không ngồi chờ, ỷ lại trên, đã phát huy khả năng lao động, tài nguyên đất đai, thiết bị, máy móc, kể cả các phế liệu, để đẩy mạnh sản xuất, từng bước cải thiện đời sống. Trong điều kiện nắng hạn gay gắt, nhiều nơi đã huy động lao động cuốc hàng nghìn hecta ruộng, tập trung hàng nghìn xe đạp nước cứu lúa, ngăn sông chống mặn, gánh nước tưới khoai; thiếu thuốc trừ sâu đã tự pha chế thuốc với cây cỏ ở địa phương kịp chống sâu bệnh; những nơi thiếu lương thực vẫn hăng hái làm thủy lợi, khai hoang.

Ở phía nam, phong trào tập thể hóa nông nghiệp phát triển nhanh, 95% hộ nông dân với trên 90% tư liệu sản xuất đã vào hợp tác xã, tập đoàn sản xuất. Các huyện tiến hành xây dựng các hợp tác xã điểm qui mô trên dưới 500 ha. Một số hợp tác xã đã tự lực xây dựng một số cơ sở vật chất, kỹ thuật trong nông nghiệp, cơ sở phúc lợi tập thể, tạo cho bộ mặt nông thôn bước đầu có sự biến đổi mới.

Bên cạnh đó, hạn chế rõ nhất là nền kinh tế của tỉnh còn nhiều khó khăn. Làm chưa đủ ăn, sản xuất chưa đủ tiêu dùng. Năm 1977 thu nhập quốc dân được 316 triệu đồng nhưng tiêu dùng hết 485 triệu đồng. Bình quân sản xuất lương thực đầu người chỉ mới đạt 225 kg. Sản lượng màu có tăng nhanh, nhưng khâu chế biến, thu mua, phân phối còn trì trệ. Bữa ăn của các gia đình nông dân vẫn chủ yếu là cơm độn khoai, sắn, và nhiều khi chỉ có sắn và khoai, thêm các loại rau trong nương, vườn. Mặc khác, thu không đủ chi, năm 1977 còn bội chi ngân sách địa phương 11,6 triệu đồng.

Trong hoàn cảnh đó, vào ngày 16-1-1978, Hội nghị lần thứ 5 của Tỉnh ủy đã ra Nghị quyết về nhiệm vụ kinh tế năm 1978, nêu bật nhiệm vụ trước mắt là:

“Tập trung hơn nữa sức lực của nhân dân, của các ngành, các cấp và các đơn vị cơ sở, tạo nên bước phát triển mạnh mẽ và đồng đều trong nông nghiệp, trọng tâm là sản xuất lương thực, thực phẩm, đẩy mạnh sản xuất và chế biến màu, phát triển chăn nuôi. Vấn đề có tính chất quyết định là thâm canh, tăng vụ. Khai hoang, phục hóa, mở thêm đất trồng trọt, xây dựng vùng kinh tế mới.

Các huyện phía nam phải đi từ tổ chức lại nông nghiệp trên địa bàn huyện theo hướng sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa mà tiến hành hợp tác hóa nông nghiệp ở cơ sở. Rút kinh nghiệm để nhanh chóng mở rộng việc xây dựng hợp tác xã, phấn đấu đến hết vụ đông xuân 1978-1979 cơ bản hoàn thành hợp tác hóa nông nghiệp. Các huyện miền núi và vùng kinh tế mới, tiến hành khẩn trương việc định canh định cư và giao đất giao rừng cho hợp tác xã và xã” [24].

Một thời gian ngắn sau đó, trong khi đang nỗ lực thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, nông dân lao động Thừa Thiên Huế phấn khởi đón chào một sự kiện lớn - Đại hội đại biểu nông dân tập thể và những đơn vị, cá nhân sản xuất nông nghiệp giỏi tỉnh Bình Trị Thiên lần thứ nhất.

Đại hội tiến hành trong 4 ngày (từ ngày 27-3 đến ngày 30-3-1978) tại thành phố Huế với sự tham dự của 229 đại biểu chính thức, đại diện cho hơn 1 triệu 50 vạn nông dân trong tỉnh và 222 đại biểu khách mời, bao gồm các đồng chí lãnh đạo chủ chốt, các anh hùng lao động, chiến sĩ thi đua, đại biểu các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất, nông trường, lâm trường, trạm, trại,  tiêu biểu cho phong trào sản xuất nông nghiệp và tổ chức nông dân lao động từ cơ sở đến huyện, thành, thị và các ngành cấp tỉnh [25].

Diễn văn khai mạc của đồng chí Lê Sáu, Bí thư Ban Chấp hành Hội Nông dân tập thể tỉnh Bình trị Thiên tại Đại hội đã nêu rõ: Đại hội lần này là “Đại hội lịch sử của nông dân tập thể, có tầm quan trọng đặc biệt, nhằm biểu dương thành tích to lớn của giai cấp nông dân tập thể, kiểm điểm đánh giá tình hình phong trào nông dân tập thể trong những năm qua, bàn phương hướng nhiệm vụ của nông dân tập thể trong những năm tới, bầu ra cơ quan lãnh đạo của Hội Nông dân tập thể tỉnh và bầu Đại biểu đi dự Đại hội cấp trên.

Đại hội Đại biểu nông dân tập thể chúng ta một lần nữa khẳng định dứt khoát con đường tất yếu phải đi lên của nông dân là quyết đưa nền nông nghiệp sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở tổ chức lại sản xuất trên địa bàn huyện mà khẩn trương hoàn thành về cơ bản cuộc vận động hợp tác hóa nông nghiệp ở các huyện phía nam”.

Sau diễn văn khai mạc, đồng chí Lê Viết Phong thay mặt Ban Thường vụ Hội Nông dân tập thể tỉnh trình bày trước Đại hội bản Báo cáo chính trị quan trọng.

Báo cáo chính trị nêu lên đặc điểm tình hình của nông dân trong tỉnh, đánh giá cao thành tích của giai cấp nông dân, luôn phát huy truyền thống cách mạng, dũng cảm trong chiến đấu, cần cù trong lao động sản xuất và tiết kiệm trong cuộc sống, đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước. Từ sau ngày giải phóng, mặc dầu đứng trước những khó khăn do hậu quả nặng nề của chiến tranh, thời tiết lại quá khắc nghiệt, sức kéo thiếu nghiêm trọng, ruộng đất hoang hóa lâu ngày v.v.. các huyện phía nam đã vận dụng đúng đắn, sáng tạo chính sách ruộng đất của Đảng, kiên quyết xóa bỏ tàn dư của chế độ phong kiến, điều chỉnh lại ruộng đất, giao cho các tập đoàn quản lý sử dụng. Điều đó càng làm cho nông dân thêm tin tưởng, phấn khởi, đoàn kết đẩy mạnh sản xuất.

Nhờ thế, chỉ trong một thời gian ngắn, 95% số hộ nông dân đã đi vào làm ăn tập thể với trên 90% tư liệu sản xuất chủ yếu được đưa vào hợp tác xã và tập đoàn sản xuất. Các huyện miền núi cũng đã tiến hành định canh định cư. Trong hai năm 1976-1977, các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất đã xây dựng được một số cơ sở vật chất kỹ thuật ban đầu, tổ chức khai hoang, phục hóa, tiến hành thâm canh, tăng vụ, mở rộng diện tích, từng bước phân bố lại lao động trên địa bàn huyện, tạo tiền đề thuận lợi cho phong trào “sản xuất giỏi, văn hóa cao, an ninh tốt”, tăng thêm điều kiện để đưa nền nông nghiệp của tỉnh tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.

Về việc xây dựng và củng cố tổ chức Hội Nông dân tập thể, đến thời điểm tiến hành Đại hội toàn tỉnh có 205.570 hội viên (chiếm tỷ lệ 49% trong tổng số nông dân lao động), sinh hoạt trong 892 chi hội với 4.549 cán bộ. Các Ban Chấp hành Hội nông dân tập thể huyện, thị, thành lần lượt hình thành và đã có cán bộ phụ trách, ở tỉnh đã có Ban Thường trực Hội Nông dân tập thể. Phong trào nông dân có tổ chức chính trị của mình là Hội Nông dân tập thể làm nòng cốt đang có khí thế vươn lên mạnh mẽ, làm cơ sở cho cao trào hợp tác hóa nông nghiệp sắp tới ở các huyện phía nam.

Báo cáo Chính trị nhấn mạnh: Đại hội đại biểu nông dân tập thể và những đơn vị, cá nhân sản xuất nông nghiệp giỏi tỉnh Bình Trị Thiên lần thứ nhất hoàn toàn nhất trí với phương hướng nhiệm vụ của Hội Nông dân tập thể trong năm 1978 và các năm sau, khẳng định con đường đi lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa là con đường tất yếu của nông dân.

Tại Đại hội, nông dân tập thể trong tỉnh hạ quyết tâm trước Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh phấn đấu bằng được và vượt những chỉ tiêu trong nông nghiệp của kế hoạch 5 năm 1976 - 1980:

Đưa tổng sản lượng lương thực lên từ 80 vạn đến 85 vạn tấn (50% màu), đàn lợn từ 80 vạn đến 85 vạn con. Đặc biệt, năm 1978 là năm bản lề của kế hoạch 5 năm, phải phấn đấu đưa diện tích canh tác lên 208.000 ha, diện tích gieo trồng lên 337.000 ha với hệ số sử dụng ruộng đất lên 1,6 lần.

Về lúa phải đạt trên 160.000 ha với năng suất bình quân 22 tạ/ha, có nhiều cánh đồng ruộng lúa cao sản đạt từ 8 đến 10 tấn/ha vụ lúa. Về màu đạt 146.000 ha, chủ yếu là trồng sắn để đưa tổng sản lượng lương thực năm 1978 lên 650.000 tấn.

Ngày công lao động phấn đấu bình quân trên 250 công/năm và ngày làm từ 8 đến 10 giờ với khẩu hiệu “một nắng hai sương bám ruộng, bám đồng để sản xuất”.

Bảo đảm lương thực được huy động vào kho Nhà nước vượt mức quy định.

Về chăn nuôi, đảm bảo mỗi hộ nông dân trên 2 đầu lợn, đưa bình quân 3 đầu lợn trên 1 ha gieo trồng, góp phần giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm mà toàn Đảng, toàn dân đang quyết tâm.

Về giai cấp nông dân và tổ chức, hoạt động của Hội Nông dân tập thể, Báo cáo Chính trị tại Đại hội chỉ rõ: Ở các huyện phía nam sau ngày giải phóng, cùng với việc xóa bỏ chế độ chiếm hữu phong kiến và thực dân kiểu mới về ruộng đất, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đại bộ phận nông dân lao động và phần lớn tư liệu sản xuất chủ yếu của mình đã đưa vào làm ăn tập thể, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa đã được xác lập. Về cơ bản, giai cấp nông dân tập thể đã được hình thành. Đó là bước nhảy vọt lớn, từ giai cấp nông dân cá thể chuyển thành giai cấp nông dân tập thể, từ người làm chủ cá thể trở thành người làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa là một sự thay đổi về chất trong đời sống kinh tế, chính trị, tư tưởng và văn hóa của người nông dân.

Hội Nông dân tập thể phải thực sự là lực lượng nòng cốt trong việc vận động nông dân tham gia sôi nổi phong trào hợp tác hóa, xây dựng hợp tác xã, tham gia quản lý trên cơ sở điều lệ hợp tác xã sản xuất nông nghiệp và tham gia xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của nền nông nghiệp tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa ở địa phương.

Trên cơ sở những thành tựu và hạn chế của phong trào nông dân và Hội Nông dân, Báo cáo Chính trị tại Đại hội đã phân tích ba kinh nghiệm lớn:

Một là, phải nắm vững đường lối cách mạng của Đảng, các nghị quyết và nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ qua từng thời gian, phải hiểu sâu sắc tình hình đặc điểm của từng địa phương, từng vùng, từng đối tượng nông dân mà có kế hoạch cụ thể, chủ động, đi sâu đi sát, kiên trì phát động nông dân, giáo dục nông dân phát huy truyền thống cách mạng, phát huy quyền làm chủ tập thể của nông dân lao động, biến nhiệm vụ công tác và mục tiêu của Đảng bộ thành hành động cách mạng cụ thể của nông dân. Đây là điều kiện quyết định sự thành công của công tác vận động nông dân trong thời kỳ mới.

Hai là, phải nắm vững chức năng, nhiệm vụ của Hội Nông dân tập thể, đồng thời nắm vững mối quan hệ công nông liên minh để tiến hành giáo dục, giác ngộ, động viên và phát động nông dân. Phải chủ động và hiểu sâu sắc mối quan hệ và tác động qua lại giữa giáo dục, tổ chức và hành động, đồng thời có biện pháp chỉ đạo trong công tác cụ thể nhằm đạt hiệu quả cao trên cả 3 mặt, tức là có giáo dục, có phát động phong trào thì tổ chức ngày càng được củng cố, phát triển. Nơi nào không nắm vững mối quan hệ tác động đó thì tổ chức không mạnh, phong trào không liên tục, thậm chí có nơi, có khi bị dừng lại.

Ba là, công tác vận động nông dân trong giai đoạn mới gắn liền với 3 cuộc cách mạng ở nông thôn, với việc xây dựng chế độ mới, nền văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa. Phải nắm vững sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của chính quyền, phải quan hệ chặt chẽ với các ngành có liên quan, trước hết là Ban Nông nghiệp của Đảng ở các cấp và các đoàn thể trong khối dân vận, mặt trận, phát huy vai trò xung kích của lực lượng thanh niên nông dân trong lao động sản xuất. Cần thống nhất nội dung, biện pháp, hướng giáo dục, phát động từng thời gian, tạo thành sức mạnh về công tác, tư tưởng, tổ chức và pháp chế để đưa phong trào cách mạng trong nông dân lên một cách mạnh mẽ và vững chắc.

Đại hội vinh dự đón tiếp và nghe phát biểu chỉ đạo của đồng chí Bùi San, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh:

“Đại hội đánh dấu một bước trưởng thành nhanh chóng của giai cấp nông dân tỉnh ta: giai cấp nông dân tập thể toàn tỉnh đã hình thành… Phát huy tinh thần làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa và tinh thần tự lực tự cường, giai cấp nông dân tập thể chúng ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự giúp đỡ của chính quyền, bước đầu đã tổ chức tốt đời sống của mình.

Trong toàn tỉnh, xã nào cũng đã xây dựng được trường học, trạm y tế, nạn mù chữ được xóa bỏ. Một số xã có trường vừa học vừa làm, một trên ba người dân được đi học không phải nộp học phí. Phong trào vệ sinh phòng bệnh được chú ý, người ốm đau đến chữa bệnh ở bệnh viện không phải trả tiền thuốc. Các tệ nạn xã hội giảm bớt rõ rệt, an ninh chính trị được giữ vững. Sự đổi mới trong nông thôn tuy chưa nhiều, nhưng so với chế độ cũ thật là một trời một vực. Nỗ lực phấn đấu cho cuộc sống tốt đẹp của mình và của con cháu muôn đời mai sau là một thành tích lớn của nhân dân ta, của giai cấp nông dân tỉnh ta”.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Hội Nông dân tập thể tỉnh gồm 37 ủy viên và Đoàn đại biểu đi dự Đại hội Nông dân tập thể toàn quốc gồm 19 đại biểu chính thức và 2 đại biểu dự khuyết. Trong phiên họp bế mạc, Đại hội đã thông qua bản thông báo gửi giai cấp nông dân trong tỉnh và thư quyết tâm gửi lên cấp trên. Sau đó, trong phiên họp đầu tiên, Ban Chấp hành Hội Nông dân tập thể tỉnh gồm 37 ủy viên đã nhất trí cử đồng chí Lê Sáu làm Bí thư Ban Chấp hành Hội Nông dân tập thể tỉnh Bình Trị Thiên, đồng chí Lê Viết Phong và đồng chí Lê Trúy làm Phó Bí thư và 6 ủy viên Thường vụ gồm các đồng chí Nguyễn Quýnh, Lê Lư, Nguyễn Đức Khanh, Trần Xuân Ái, Nguyễn Thị Tòng và Phan Kinh.

Để chào mừng Đại hội, ngay từ vụ mùa 1978, nông dân trong tỉnh đã ra quân chiếm lĩnh ruộng đồng, đẩy mạnh sản xuất.

Vụ đông xuân 1977-1978, diện tích gieo trồng 170.000 ha, đạt 74,2% kế hoạch, tăng 2% so với Đông Xuân năm trước, trong đó giống lúa mới chiếm tỷ lệ 50%, số diện tích còn lại chủ yếu ở chân ruộng sâu, ô đầm. Riêng diện tích cây lương thực tăng 4,3%, diện tích màu tăng 9,8%.

Đầu vụ thời tiết thuận lợi, lúa phát triển tốt. Nhưng đến cuối vụ sâu bệnh phát triển nhanh, gần 1 vạn ha bị đạo ôn, sâu đục thân, cuốn lá, bọ xít phá hoại, tập trung nhiều ở huyện trọng điểm lúa như Hương Điền. Đến cuối vụ lại gặp mưa nhiều (trong 10 ngày đầu tháng 5 có 8 ngày mưa) và kèm theo mưa là lũ, úng đúng vào lúc thu hoạch, do đó năng suất lúa chỉ đạt bình quân 18,7 tạ/ha, sản lượng lúa chỉ đạt 155.200 tấn (sụt 14.300 tấn so với Đông Xuân năm trước).

Khai hoang trồng màu có chuyển biến tốt. Ở các huyện đều có tổ chức lực lượng lao động tập trung với hình thức quân sự hoá tiến hành khai hoang kết hợp xây dựng vùng kinh tế mới. Huyện Hương Phú huy động 3.500 lao động, huyện Phú Lộc làm tốt việc đào dỡ, chế biến, thu mua và trồng màu. Sản lượng màu đạt 74.300 tấn (chưa tính sắn), tăng 38.000 tấn, gấp 2 lần so với Đông Xuân năm trước. Nhờ thế, tổng sản lưọng lương thực Đông Xuân 1977-1978 đạt 229.500 tấn, tăng 24.500 tấn so với Đông Xuân năm trước. Nếu tính cả số sắn đã trồng trong vụ Đông Xuân chưa thu hoạch với sản lượng ước tính 95.000 tấn quy thóc, thì tổng sản lượng lương thực Đông Xuân 1977-1978 đạt 323.000 tấn, trong đó màu quy thóc là 181.000 tấn (53,4%). Nhờ phát triển mạnh màu nên đã giải quyết được nạn thiếu đói lúc giáp hạt và có phần dự trữ trong nhân dân.

Chăn nuôi tiếp tục phát triển, đàn lợn tăng 10,4%, đàn bò tăng 6%, đàn trâu bằng cùng kỳ năm 1977.

Về thủy lợi, trong 6 tháng đầu năm 1978 đã huy động một lực lượng lớn xây dựng công trình trọng điểm trên địa bàn tỉnh (Nam Thạch Hãn), đồng thời tiếp tục phát triển làm thuỷ lợi vừa và nhỏ ở các huyện và cơ sở. Ở công trình trọng điểm Nam Thạch Hãn đã thực hiện huy động các binh đoàn lao động xung kích của nhiều địa phương, tạo được khí thế thi đua sôi nổi.

Các huyện phía nam đã đưa gần toàn bộ nông dân (95%) với phần lớn tư liệu sản xuất nông nghiệp vào các tổ chức sản xuất tập thể; đã tổ chức được 39 hợp tác xã quy mô thôn và xã, 248 hợp tác xã giản đơn và 2.186 tập đoàn sản xuất. Trong 39 hợp tác xã mới tổ chức ở các huyện phía nam có một số hợp tác xã làm ăn khá, quản lý các mặt chặt chẽ, nhưng hợp tác xã đó thường có quy mô vừa phải (khoảng 400 ha).

Như vậy là trên phạm vi toàn tỉnh, việc xoá bỏ các hình thức bóc lột phong kiến đã căn bản hoàn thành, phong trào tập thể hoá trong nông nghiệp đã giành được thắng lợi quyết định. Vấn đề chủ yếu đặt ra là: tiếp tục hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, tổ chức lại sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện, phân bố và tổ chức lại lao động, tăng năng suất cây trồng, gắn việc phát triển sức sản xuất nông nghiệp với phát triển sức sản xuất công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, hình thành cơ cấu kinh tế nông công nghiệp, từ đầu và từ cơ sở, tăng thêm cơ sở vật chất kỹ thuật, từng bước cải thiện đời sống nhân dân, tăng nguồn hàng xuất khẩu, tăng tích lũy cho hợp tác xã và làm tốt nghĩa vụ đối với Nhà nước.

Ngoài ra, trong hai tháng đầu năm 1978, toàn tỉnh đã chuyển người dân đi kinh tế mới ở Lâm Đồng, Gia Lai, Kon Tum được 13.000 người. thành phố Huế, huyện Hương Điền, Hương Phú đã có sự chỉ đạo tập trung chu đáo nên tạo được niềm phấn khởi cho quần chúng khi lên đường xây dựng quê hương mới [26].

Tính chung cả năm 1978, tổng sản lượng lương thực đạt 42,5 vạn tấn, năm 1979 bị thiên tai nặng chỉ đạt 38 vạn tấn. Sản lượng lương thực bình quân đầu người là 243kg (1978) và 217 kg (1979).

Mức lương thực Trung ương cấp cho Bình Trị Thiên giảm dần, từ 65.000 tấn (1976) giảm xuống còn 39.000 tấn (1979). Trong tổng số lượng lương thực Nhà nước bán ra trên địa phương, mức tự giải quyết lương thực của tỉnh từ chỗ chiếm 25,4% (1976) tăng lên 51,2% (1979).

Chăn nuôi cũng có bước phát triển. Năm 1979 so với năm 1976 đàn lợn tăng 28,6%, đạt 44 vạn con, đàn trâu tăng 4,1%, đàn bò tăng 24,6,%.

Năm 1979, công tác phát triển thủy lợi đã nâng khả năng tưới nước lên 2,1 lần (19.250 ha) so với năm 1976. Từ năm 1976 đến năm 1980, toàn tỉnh làm thêm được 541 công trình thủy lợi vừa và nhỏ.

Phong trào định canh, định cư, làm thủy lợi, xây dựng ao cá Bác Hồ phát triển ở miền núi. Nhân dân đã góp công xây dựng thủy lợi nhỏ, làm ruộng nước, hình thành mô hình VACR.

Tháng 6-1979, thành phố Huế tiếp tục đưa 5.000 người vào Tây Nguyên xây dựng vùng kinh tế mới tại Gia Lai, Đắc Lắc, Lâm Đồng. Tại vùng kinh tế mới, nhân dân đã mở rộng diện tích khai hoang, không chỉ trồng cây lương thực mà còn trồng các loại cây công nghiệp, phát triển chăn nuôi, xây dựng trường học, trạm xá, cửa hàng.

Tóm lại, “Đảng bộ, dân và quân tỉnh ta đã có những cố gắng trong công tác lương thực, nhất là đã bước đầu chú ý đẩy mạnh sản xuất màu. Nhưng khuyết điểm lớn nhất, nổi bật nhất là thâm canh kém, năng suất lúa và màu rất thấp, chế biến màu rất kém. Năm 1978 nhiều huyện làm nghĩa vụ lương thực quá thấp. Lương thực thu được không đủ để cân đối trong huyện” [27].

Từ thực tiễn các địa phương, việc tìm kiếm một lối thoát cho nông nghiệp được đặt ra hết sức bức thiết. Trong bối cảnh đó, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IV) ngày 20-9-1979 đã đáp ứng được yêu cầu trước mắt. Về nông nghiệp, nghị quyết thừa nhận sự tồn tại của nền kinh tế nhiều thành phần và đề ra một số chính sách như sau: cho các hộ xã viên mượn đất để sản xuất nhằm khắc phục tình trạng bỏ hoang, ổn định mức bán nghĩa vụ lương thực trong 5 năm, phần còn lại bán cho Nhà nước theo giá thỏa thuận và người nông dân được tự do lưu thông.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (khóa IV) đã tạo ra khí thế mới trong sản xuất nông nghiệp và là cột mốc đánh dấu sự mở đầu đổi mới trong quản lý nông nghiệp của Đảng, mở ra một thời kỳ mới cho nông nghiệp phát triển [28].

Sau đó, ngày 27-9-1979, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 78 về việc tổ chức Hội Liên hiệp nông dân tập thể Việt Nam. Chỉ thị khẳng định Hội Liên hiệp nông dân tập thể Việt Nam là tổ chức quần chúng rộng rãi của nông dân lao động trong cả nước, có nhiệm vụ tập hợp, đoàn kết nông dân để giáo dục, vận động nông dân thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa miền Bắc và cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp miền Nam, đưa nông thôn tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hội Liên hiệp nông dân tập thể Việt Nam là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, có nhiệm vụ cùng với tổ chức công đoàn xây dựng khối liên minh công nông vững chắc làm cơ sở cho Mặt trận Tổ quốc. Hội kết nạp tất cả nông dân hăng hái phấn đấu vào con đường làm ăn tập thể xã hội chủ nghĩa theo nguyên tắc tự nguyện [29].

Ngày 18-5-1980, nhằm thực hiện Nghị quyết số 25 của Bộ Chính trị, Thường vụ Tỉnh ủy ra Nghị quyết số 4/NQ-TU, trong đó chỉ rõ:

“Nhu cầu về lương thực, nhất là nhu cầu lương thực thuộc khu vực Nhà nước ở tỉnh ta quá lớn, sản xuất lại tăng chậm. Khả năng lao động, đất đai, cây trồng, thời tiết, mùa vụ chưa được khai thác, sử dụng tốt. Những năm gần đây mùa màng bị mất mát, nghĩa vụ huy động lương thực chưa được đồng đều và kết quả đạt thấp; phân phối, quản lý, tiêu dùng lương thực còn nhiều sơ hở, lãng phí, vẫn còn tình trạng hành chính bao cấp nặng; tình hình lương thực đã khó khăn nghiêm trọng lại càng thêm khó khăn, từ đó đã dẫn đến nhiều mặt khó khăn trong đời sống, ảnh hưởng không tốt đến tình hình chính trị, xã hội, trật tự, trị an.

Do đó, Ủy ban nhân dân tỉnh quyết định triển khai việc tính toán ổn định nghĩa vụ lương thực trong 5 năm, bắt đầu từ năm 1980 cho các hợp tác xã nông nghiệp, tập đoàn sản xuất và hộ nông dân cá thể theo Nghị quyết Trung ương Đảng và Hội đồng Chính phủ để nông dân yên tâm, phấn khởi đẩy mạnh sản xuất.

Trong năm 1980 phải đảm bảo chỉ tiêu huy động 6 vạn tấn lương thực, trong đó mức ổn định nghĩa vụ là 4,5 vạn tấn (bao gồm thuế và thủy lợi phí 2,6 vạn tấn; mua theo hợp đồng hai chiều 1,9 vạn tấn), đồng thời tích cực mua theo giá thỏa thuận để tăng thêm lương thực trong tay Nhà nước” [30].

Hoạt động của Hội Liên hiệp Nông dân tập thể tỉnh sau Đại hội I có thêm những chuyển biến mới.

Về công tác giáo dục động viên hội viên và nông dân, nhằm động viên quần chúng thi đua phấn đấu đẩy mạnh sản xuất lương thực, thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, tiến đến tự giải quyết được lương thực, đảm bảo ổn định đời sống và làm tốt nghĩa vụ đối với Nhà nước, bằng nhiều hình thức Tỉnh Hội đã chỉ đạo tổ chức Hội cấp dưới chú trọng tổ chức sinh hoạt hàng tháng cho hội viên ở tổ Hội, chi Hội với nội dung thiết thực, lấy hội viên làm nòng cốt để vận động quần chúng tham gia học tập các đợt sinh hoạt chính trị do Đảng, chính quyền và hợp tác xã tổ chức, làm cho nông dân nhận rõ tình hình và nhiệm vụ mới, hiểu rõ để thực hiện các chủ trương chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước cũng như điều lệ hợp tác xã. Phát huy quyền làm chủ tập thể trong sản xuất, xây dựng hợp tác xã, hăng hái tham gia xây dựng và bảo vệ Đảng, bảo vệ chính quyền, tự giác chống tiêu cực trong nội bộ nông dân và ngoài xã hội.

Dưới sự lãnh đạo của Tỉnh ủy, sự chỉ đạo và giúp đỡ của cấp ủy Đảng các cấp, Ban Thường trực Tỉnh Hội đã mở các lớp bồi dưỡng cho cán bộ chủ chốt của Hội ở cấp tỉnh và huyện, thị nhằm tiến hành triển khai Chỉ thị 78 của Trung ương Đảng, Chỉ thị 01 của Tỉnh ủy về việc củng cố, xây dựng tổ chức Hội Liên hiệp Nông dân tập thể các cấp và đưa điều lệ dự thảo của Trung ương Hội cho nông dân học tập. Tỉnh hội trực tiếp chỉ đạo học tập tại 2 điểm Vinh Thủy và Thủy Phương, sau đó triển khai học tập rộng rãi trong toàn tỉnh.

Chỉ thị 78 và Chỉ thị 01 đã làm cho cán bộ Hội các cấp, hội viên và nông dân thêm phấn khởi tin tưởng, phấn khởi tự hào về truyền thống cách mạng của nông dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng thời xác định con đường tất yếu phải đi lên xã hội chủ nghĩa bằng con đường làm ăn tập thể, nhận rõ vai trò, trách nhiệm của nông dân tập thể trong giai đoạn mới của cách mạng, nhận rõ sự cần thiết phải xây dựng tổ chức Hội Liên hiệp nông dân tập thể Việt Nam, coi đây là một tổ chức chính trị của mình để đảm bảo phát huy quyền làm chủ tập thể bằng tổ chức.

Học tập đến đâu, tổ chức Hội Nông dân tập thể được củng cố, phát triển đến đó. Các phong trào thi đua trong nông dân lao động tiếp tục diễn ra sôi nổi, nhất là phong trào thi đua thực hiện “Tất đất tất vàng”, làm theo tinh thần Nghị quyết 6 của Trung ương Đảng. Trong khó khăn, quần chúng đã hưởng ứng phong trào đoàn kết tương trợ, nêu cao ý thức tự lực tự cường, quyết tâm phấn đấu hoàn thành kế hoạch sản xuất Đông Xuân, kế hoạch vụ Hè Thu - Đông trong từng hợp tác xã, nhằm phấn đấu thực hiện kế hoạch Nhà nước năm 1980 thắng lợi.

Về phong trào nông dân tập thể thi đua sản xuất nông nghiệp, mặc dù lụt bão, hạn hán, sâu bệnh diễn ra liên tục và gay gắt, nhiều vùng bị mất mùa liên tiếp, gây thêm khó khăn cho đời sống quần chúng, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng, nông dân vẫn không ngừng phấn đấu đẩy lùi khó khăn, quyết vươn lên giành thắng lợi với khẩu hiệu “Tất đất tất vàng”. Nông dân khắp nơi đã nêu cao tinh thần tự lực tự cường, đoàn kết tương trợ để vượt qua khó khăn. Huyện nào cũng có phong trào làm thủy lợi nhỏ, phát triển guồng gàu chống hạn, chống úng, dùng sức người cuốc ruộng để canh tác kịp thời vụ, dùng cây thuốc nam diệt trừ sâu bệnh, làm phân xanh, phân chuồng bổ sung cho phân hóa học, tận dụng mọi khả năng lao động, tranh thủ ngoài giờ khai phá ruộng đất hoang hóa, tận dụng đầu thừa đuôi thẹo để sản xuất.

Trong khó khăn, tình đoàn kết nông dân càng gắn bó, nổi lên phong trào sản xuất “Tự cứu mình và giành phần giúp bạn”, không những giúp nhau trong phạm vi từng hợp tác xã, từng huyện mà giúp cả huyện bạn (bước đầu nông dân huyện Lệ Ninh góp 35 tấn, Phú Lộc 15 tấn… giúp nhân dân huyện Quảng Trạch).

Với sự nỗ lực phấn đấu của quần chúng nông dân và sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của các cấp chính quyền, đời sống nông dân không những được ổn định mà nhiều nơi còn được cải thiện hơn trước, đồng thời làm tròn, làm vượt mức nghĩa vụ lương thực, thực phẩm đối với Nhà nước, tiêu biểu là huyện Phú Lộc và hợp tác xã Thủy Dương (được Ủy ban nhân dân Tỉnh khen thưởng tại Đại hội Đông Xuân 1979-1980 của Tỉnh).

Các chính sách chủ trương của Đảng đều được chấp hành tốt, nổi bật là phát huy quyền làm chủ tập thể của quần chúng nông dân trong xây dựng Đảng, xây dựng hợp tác xã và đấu tranh chống những hiện tượng tiêu cực. Trong xây dựng Đảng, nhất là trong đợt phát thẻ đảng viên, quần chúng nông dân đã mạnh dạn, chân tình góp ý kiến xây dựng cán bộ đảng viên cả ưu điểm và khuyết điểm, đồng thời quần chúng tự liên hệ ưu khuyết điểm của mình để sửa chữa. Nhiều đơn vị Hội còn giới thiệu với Đảng xem xét bồi dưỡng kết nạp những hội viên ưu tú như Vinh Thủy, Thủy Phương, Lộc An. Trong đấu tranh chống tiêu cực, quần chúng đã mạnh dạn đấu tranh phê bình, xây dựng cán bộ ở xã và hợp tác xã. Xã viên một số hợp tác xã ở Hương Phú, Phú Lộc, Hương Điền còn viết báo cáo phản ánh với huyện Hội, tỉnh Hội đề nghị can thiệp giải quyết.

Nhiều hợp tác xã bước đầu thực hiện công khai kinh tế đối với xã viên, nhất là công khai công điểm hàng tháng ở đội sản xuất.

Đi đôi với việc chống tiêu cực, nông dân trong tỉnh còn có ý thức đề cao cảnh giác, kịp thời phê phán những luận điệu không đúng, góp phần làm cho an ninh trật tự ở nông thôn đảm bảo ổn định.

Về tổ chức và hoạt động của Hội, cuối năm 1979 toàn tỉnh có 232 xã có tổ chức Hội với 156.172 hội viên, chủ yếu là các xã từ Bến Hải trở vào. Tuy ít nhưng một số cán bộ và hội viên lại chưa nhận thức đúng sự cần thiết phải xây dựng tổ chức Hội, một số cán bộ bỏ việc, một số hội viên không đi sinh hoạt. Sau đợt học tập Chỉ thị 78, Chỉ thị 01 và Điều lệ Hội, tổ chức Hội được phát triển với số lượng cao hơn trước. Đến tháng 9-1980, có 283 xã có tổ chức Hội với 192.643 hội viên. Hầu hết xã có tổ chức Hội đều đã tiến hành đại hội Nông dân tập thể cấp xã để kiện toàn tổ chức Hội phù hợp với tổ chức hợp tác xã, mỗi đội sản xuất là một tổ Hội, mỗi hợp tác xã là một chi Hội thường xuyên sinh hoạt.

Cũng trong thời điểm này, huyện Phú Lộc và Hương Điền đã hoàn thành đại hội đại biểu nông dân tập thể cấp huyện.

Các tổ Hội, chi Hội đã duy trì được nề nếp sinh hoạt hội viên thường kỳ hàng tháng một lần với nội dung: kiểm điểm tinh thần làm chủ tập thể trong thực hiện kế hoạch công tác tháng trước đề ra và tinh thần chấp hành chủ trương, chính sách của Đảng, điều lệ nội quy của hợp tác xã, tinh thần đoàn kết tương trợ; phản ánh tâm tư nguyện vọng và phê bình góp ý cán bộ đảng viên; kế hoạch tháng sau bao gồm phổ biến những chủ trương cần thiết.

Thực tế nơi nào tổ chức Hội Nông dân tập thể được củng cố vững mạnh, nơi đó quần chúng nông dân được giác ngộ và đảm bảo phát huy quyền làm chủ tập thể tốt hơn và hợp tác xã sản xuất nông nghiệp nơi đó vững mạnh, sản xuất phát triển, chấp hành tốt các chính sách của Đảng và góp phần hạn chế những tiêu cực xảy ra [31].

Về tình hình cán bộ và nhân viên phục vụ của cơ quan Hội Nông dân tập thể tỉnh, tổng số cán bộ và nhân viên là 15 người, so với số lượng được biên chế do Tổ chức Tỉnh ủy quy định thì thiếu 5 người [32].

2. Giai đoạn 1981 - 1989

Sự kiện lịch sử tác động mạnh mẽ, trực tiếp đến nông dân và hoạt động của Hội Nông dân trong năm 1981 là những chủ trương mới  của Đảng về nông nghiệp.

Từ ngày 3 đến ngày 7-1-1981 tại Hải Phòng, Bộ Nông nghiệp tổ chức hội nghị bàn việc mở rộng và hoàn thiện các hình thức khoán sản phẩm trong nông nghiệp. Trên cơ sở những hiệu quả của hình thức khoán sản phẩm đến người lao động đối với cây lúa ở một số địa phương như Hải Phòng, Nghệ Tĩnh, Vĩnh Phú, Hà Sơn Bình, hội nghị khẳng định đó là  hình thức phù hợp, đang có xu hướng trở thành phong trào quần chúng vì đáp ứng hài hoà 3 lợi ích: nhà nước, tập thể và người lao động.

Từ kết quả khoán thử sản phẩm ở các địa phương, ngày 13-1-1981, Ban Bí thư ra Chỉ thị số 100 - CT/TW về cải tiến công tác khoán, mở rộng “khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động” trong hợp tác xã nông nghiệp (gọi tắt là Chỉ thị 100 hay Khoán 100).

Chỉ thị nêu lên mục đích, nguyên tắc khoán và phương hướng chủ yếu để cải tiến công tác khoán trong hợp tác xã nông nghiệp là “khuyến khích hơn nữa lợi ích chính đáng của người lao động và làm cho mọi người tham gia các khâu trong quá trình sản xuất và quản lý của hợp tác xã đều thực sự gắn bó với sản phẩm cuối cùng, do đó mà đưa hết nhiệt tình và khả năng ra lao động sản xuất và xây dựng, củng cố hợp tác xã” [33].

Trước đây đã thực hiện chế độ “ba khoán” (khoán chi phí sản xuất, khoán công điểm và khoán sản phẩm) trong hợp tác xã nông nghiệp, nhưng khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động được thể hiện ở mức khoán cho người lao động một diện tích nhất định, người xã viên thường làm ba khâu: cấy, chăm sóc, thu hoạch, còn hợp tác xã làm 5 khâu, nếu vượt khoán thì xã viên được hưởng, vì thế mà phát huy được tính tích cực của người lao động, thúc đẩy họ đem hết nhiệt tình lao động và khả năng ra sản xuất, tận dụng đất đai, đầu tư phân bón, cải tiến kỹ thuật, tận thu mùa màng để có năng suất và sản lượng cao. Theo Chỉ thị 100, cần mạnh dạn mở rộng việc thực hiện hình thức “khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động” trong các hợp tác xã nông nghiệp… đồng thời phải chỉ đạo chặt chẽ làm tốt và không ngừng hoàn thiện hình thức khoán này. Đối với các hợp tác xã ở miền núi và tập đoàn sản xuất ở miền Nam thì cần làm thử, rút kinh nghiệm trước khi mở rộng. Mức khoán phải được xác định hợp lý và được xã viên thảo luận dân chủ. Chế độ phân phối và thu nhập cần được cải tiến để mọi người gắn bó với sản phẩm cuối cùng. Tư liệu sản xuất của tập thể phải được quản lý và sử dụng có hiệu quả. Kiên quyết ngăn chặn tình trạng “khoán trắng” cho xã viên. Không giao ruộng đất cho xã viên tự ý sử dụng và phải có kế hoạch sử dụng tốt cơ sở vật chất - kỹ thuật.

Chỉ thị 100 đi vào cuộc sống đã “bước đầu tạo ra một động lực mới trong sản xuất nông nghiệp” [34].

Trên địa bàn tỉnh, từ ngày 6-1-1981 đến 11-1-1981, tại thành phố Huế, diễn ra sự kiện chính trị quan trọng: Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Trị Thiên lần thứ II. Nghị quyết Đại hội nêu rõ nhiệm vụ sản xuất nông nghiệp trong hai năm 1981 - 1982 là “tập trung giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp, hàng tiêu dùng thiết yếu và hàng xuất khẩu”. Đây là nhiệm vụ hàng đầu trong công tác giáo dục vận động nông dân của các cấp hội từ tỉnh xuống đến xã.

Sau đó, để cụ thể hóa chủ trương của Trung ương và triển khai Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh, ngày 21-2-1981, Thường vụ Tỉnh uỷ ban hành Nghị quyết 02-NQ/TV về “Chủ trương và biện pháp cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong các hợp tác xã nông nghiệp”.

Về đánh giá tình hình công tác khoán, Nghị quyết Thường vụ Tỉnh ủy khẳng định: tỉnh đã thực hiện chế độ “3 khoán” của hợp tác xã với đội sản xuất. Quá trình thực hiện chế độ “3 khoán” phổ biến là đội sản xuất khoán việc cho tổ, nhóm hoặc người lao động. Trong năm 1980, Thường vụ Tỉnh ủy đã chủ trương thực hiện “khoán sản phẩm đến hộ xã viên và người lao động về diện tích màu phân tán và một số diện tích lúa khó quản lý, chăn nuôi lợn gia công”.

Trong vụ Đông Xuân 1980 - 1981, Thường vụ Tỉnh ủy đã chủ trương mở rộng khoán sản phẩm đến hộ xã viên, nhóm lao động và người lao động đối với toàn bộ diện tích màu, cây công nghiệp, chăn nuôi lợn, riêng cây lúa thì mở rộng “khoán sản phẩm” đối với những diện tích khó quản lý. Mỗi huyện chỉ đạo làm thử 1 hợp tác xã khoán sản phẩm đối với toàn bộ diện tích lúa, tiếp đến là mở rộng “khoán sản phẩm” đối với 2 khâu sản xuất còn lại (chăm sóc, thu hoạch) của cây lúa ở những nơi có điều kiện.

Đến tháng 2-1981, đã có 80% hợp tác xã vùng đồng bằng và gò đồi “khoán sản phẩm” từ 30 đến 100% diện tích màu; 69,3% hợp tác xã “khoán sản phẩm” từ 20 đến 100% diện tích lúa; 79,10% hợp tác xã “khoán sản phẩm” chăn nuôi lợn. Hình thức khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động bước đầu tạo nên khí thế hồ hởi phấn khởi và tinh thần tự giác lao động của nông dân, phát huy được trách nhiệm của người lao động và cán bộ quản lý hợp tác xã.

Bên cạnh mặt tích cực cũng còn những lệch lạc trong “khoán sản phẩm” như hạ thấp diện tích, năng suất, sản lượng, nghiêng về lợi ích một bên, phân chia ruộng đất manh mún; mặc khác, tình trạng “khoán trắng” đã xảy ra nhiều nơi, nhất là với màu và chăn nuôi lợn.

Về chủ trương mở rộng “khoán sản phẩm”, Nghị quyết nêu: hoàn chỉnh hơn nữa chế độ 3 khoán, có thưởng phạt công minh của hợp tác xã đối với đội sản xuất (khoán chi phí, khoán công điểm, khoán sản phẩm) để tạo điều kiện cho việc mở rộng “khoán sản phẩm”… Không áp dụng hình thức “khoán hộ” và kiên quyết khắc phục tình trạng “khoán trắng”. Căn cứ vào điều kiện từng hợp tác xã và đội sản xuất mà vận dụng linh hoạt, sát đúng các hình thức và mức độ “khoán sản phẩm” các loại cây, con, ngành nghề, các khâu sản xuất v.v..

Để thực hiện tốt công tác “khoán sản phẩm”, đội sản xuất cần tổ chức các nhóm lao động chuyên khâu (làm đất, phân), các đội chăn nuôi và ngành nghề thì tổ chức các nhóm lao động chuyên khâu của ngành. Ngoài nhóm chuyên khâu và chuyên ngành, các đội sản xuất cần khuyến khích hình thành các nhóm lao động tự nguyện gắn với người lao động nhận khoán (từ 3 đến 5 người) theo quan hệ gia đình, họ hàng thân thuộc để tương trợ nhau.

Nghị quyết nêu rõ giải pháp đối với các ngành trồng trọt, chăn nuôi, nguyên tắc thực hiện khoán và phương hướng chủ yếu để cải tiến công tác khoán nhằm đạt mục đích “phát triển sản xuất, kích thích tăng năng xuất lao động, sử dụng tốt đất đai và cơ sở vật chất kỹ thuật hiện có, áp dụng tiến bộ kỹ thuật, tiết kiệm chi phí sản xuất, củng cố và tăng cường quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa ở nông thôn, không ngừng nâng cao thu nhập và đời sống của xã viên, tăng tích lũy cho hợp tác xã, làm tròn nghĩa vụ và không ngừng tăng khối lượng nông sản cung cấp cho Nhà nước”.

Đầu tháng 3-1981, Ban vận động củng cố hợp tác xã và xây dựng huyện đã mở hội nghị với sự tham gia của các đồng chí lãnh đạo chủ chốt các huyện, các ngành cấp tỉnh và một số chủ nhiệm các hợp tác xã để quán triệt chỉ thị và nghị quyết của Trung ương và của tỉnh. Các huyện đều ra nghị quyết của Thường vụ huyện ủy, tổ chức tập huấn cho trên 1 vạn cán bộ chủ chốt ở các ngành cấp huyện, xã và cán bộ hợp tác xã, đội sản xuất. Các đảng bộ cơ sở đã tổ chức cho đảng viên học tập nhằm quán triệt tinh thần chỉ thị, nghị quyết của cấp trên. Các cấp bộ hội kịp thời phổ biến chủ trương mới đến tận quần chúng, xã viên, được xã viên hoan nghênh.

Chỉ thị và nghị quyết đi vào thực tiễn cuộc sống đã đáp ứng nguyện vọng chính đáng của quần chúng. Được quyền chủ động trong sản xuất, nông dân trong tỉnh phấn khởi, hăng hái tận dụng đất đai, lao động, vốn, kỹ thuật, tăng năng suất lao động. Nhiều hiện tượng tiêu cực trong sản xuất và phân phối, tình trạng thiếu tích cực trong quản lý đã giảm đáng kể. Sản xuất nông nghiệp trong toàn tỉnh chuyển biến rõ rệt “vụ Đông Xuân 1980 - 1981 so với bình quân các vụ Đông Xuân 5 năm trước (1976 - 1980) tăng 64%, nộp nghĩa vụ nhà nước tăng 91%, chia cho xã viên tăng gần 70% … Hợp tác xã Thuỷ Dương chi phí một tạ thóc trước khi chưa khoán sản phẩm là 17,3 đồng và 9 ngày công, sau khi khoán chỉ còn 14,8 đồng và 7,5 ngày công. Năng suất lúa bình quân trên toàn tỉnh tăng từ 14,64 tạ/ha lên 22 tạ/ha” 2.

Cơ chế khoán mới đã tác động mạnh mẽ đến nông nghiệp, nông dân và nông thôn. Ở các hợp tác xã khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động, “năng suất và sản lượng đều tăng, mọi người hăng say lao động sản xuất; bảo đảm tốt hơn quy trình sản xuất, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tiết kiệm nhiều khoản chi phí, sử dụng có hiệu quả hơn nhiều loại vật tư và hạn chế được tình trạng tham ô lãng phí. Cơ sở vật chất kỹ thuật của các hợp tác xã được tăng cường. Thực hiện khoán sản phẩm đã thúc đẩy các mặt công tác quản lý như: kế hoạch, công tác định mức, hạch toán; phát huy được tinh thần trách nhiệm, ý thức làm chủ tập thể của cán bộ và xã viên, nêu cao tinh thần độc lập tự chủ của hợp tác xã và sự sáng tạo của quần chúng lao động. Cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đã tăng cường công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền và tăng cường hoạt động của các đoàn thể quần chúng” [35].

Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ V (1982), nông nghiệp được xác định là mặt trận hàng đầu. Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ III (1-1983) cũng khẳng định vị trí rất quan trọng của nông nghiệp: “các ngành kinh tế, văn hóa phải xoay quanh mặt trận nông nghiệp mà phục vụ nhằm trước hết giải quyết cho được vấn đề ăn” [36].

Tỉnh ủy tập trung chỉ đạo nông nghiệp, xác định những vùng lúa năng suất cao của tỉnh như Hương Điền, Hương Phú, Huế và Phú Lộc; xác định rõ vị trí màu (các loại lương thực ngoài lúa) trong cơ cấu lương thực.

Dưới tác động của những chủ trương mới về nông nghiệp, bám sát nghị quyết của Đảng, trong những năm từ 1981 đến 1983, phong trào nông dân và Hội Liên hiệp nông dân tập thể ở các huyện thuộc địa bàn Thừa Thiên Huế có nhiều khởi sắc.

Về phát triển nông nghiệp toàn diện, do được chế độ khoán kích thích, nông dân đã tích cực đưa giống mới vào sản xuất. Năm 1983, tỷ lệ giống mới trong toàn tỉnh đạt 55,2%. Những tiến bộ mới về thâm canh lúa, phát triển cây công nghiệp, cây xuất khẩu được áp dụng. Sản lượng lương thực liên tục tăng. Năng suất lúa nhiều địa phương đạt mức cao. Năm 1983, trong toàn tỉnh Bình Trị Thiên, có 89 hợp tác xã đạt trên 5 tấn/ha, cao nhất là Thủy Dương đạt 11 tấn/ha. 4 đơn vị, trong đó có Hương Điền và Huế đạt trên 5 tấn/ha/năm. Phong trào “trồng cây gây rừng”, định canh định cư cũng có bước phát triển đáng kể    vùng núi, vùng kinh tế mới như A Lưới, Nam Đông, Bình Điền.

Nông dân vùng ven biển, đầm phá vừa phát triển nghề cá, vừa coi trọng nghề nông, chủ yếu là trồng màu, cây thực phẩm, lập vườn trồng rừng ven biển, phát triển ngành nghề thủ công v.v..

Nhờ phát triển nông nghiệp toàn diện, từ chỗ hàng năm nhận chi viện của Nhà nước, đến năm 1984 Bình Trị Thiên “đã cơ bản giải quyết được vấn đề lương thực với mức tối thiểu, đời sống nhân dân được ổn định, từng bước có cải thiện, làm nghĩa vụ với Nhà nước ngày càng tăng” [37].

Với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, nông dân đã đóng góp nhiều ngày công xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật như sân phơi, nhà kho, nhà trẻ, lớp mẫu giáo, trường học, bệnh xá... làm cho bộ mặt nông thôn có nhiều thay đổi.

Về tổ chức Hội Nông dân, tháng 9-1981, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành chỉ thị số 116-CT/TW về việc tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với tổ chức và hoạt động của Hội Liên hiệp nông dân tập thể Việt Nam. Chỉ thị quy định ở cấp tỉnh và huyện thành lập Hội đồng của Hội Liên hiệp Nông dân tập thể. Cơ quan của Hội đồng gắn với Ban Nông nghiệp của Đảng. Ban Nông nghiệp của Đảng có trách nhiệm giúp cấp ủy chỉ đạo toàn bộ công tác của Hội Liên hiệp nông dân tập thể. Ở cấp huyện, đồng chí thường vụ cấp ủy phụ trách nông nghiệp, trực tiếp làm Chủ tịch Hội Nông dân tập thể.

Do điều kiện lịch sử, Bình Trị Thiên vẫn duy trì hoạt động của Hội Lên hiệp Nông dân tập thể tỉnh, không thành lập hội đồng; đồng chí chủ tịch hội cấp tỉnh đồng thời là Phó ban Nông nghiệp Tỉnh uỷ.

Thực hiện chức năng của một đoàn thể quần chúng, dưới sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, Hội Lên hiệp nông dân tập thể các cấp đã tập trung thực hiện những nhiệm vụ chủ yếu như: tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa, tinh thần và năng lực làm chủ tập thể của hội viên và nông dân; vận động hội viên và nông dân thi đua lao động sản xuất tiết kiệm, phấn đấu góp phần thực hiện thắng lợi các kế hoạch kinh tế xã hội của tỉnh, huyện, thị thành và của hợp tác xã; tham gia cải tạo, củng cố tăng cường quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp; vận động hội viên nông dân phát triển kinh tế gia đình, tham gia công tác văn hoá xã hội, xây dựng con người mới, nông thôn mới, củng cố quốc phòng an ninh, xây dựng bảo vệ  Đảng và chính quyền v.v..

Hệ thống tổ chức hội từ tỉnh đến cơ sở được xây dựng ngày càng hoàn chỉnh. Đến tháng 4-1984, toàn tỉnh có 392.593 hội viên, chiếm tỷ lệ gần 80% lao động nông thôn. Công tác đào tạo cán bộ được chú trọng. Từ đại hội lần thứ nhất (1978) đến đại hội lần thứ hai (1984), các cấp hội đã bồi dưỡng đào tạo trên 5840 cán bộ, với trên 2,5 vạn lượt tổ trưởng, tổ phó.

Về vai trò và những hạn chế trong hoạt động của tổ chức hội các cấp, báo cáo của Ban Chấp hành Hội Lên hiệp nông dân tập thể tỉnh khoá I trình bày trước đại hội lần thứ hai nêu rõ: “Nhiều cấp Hội đã có chuyển biến một bước trong phương thức hoạt động, đi sâu đi sát hơn với thực tiễn của sản xuất và đời sống, biết kịp thời nắm vấn đề nảy sinh trong nhận thức tư tưởng của nông dân, thấy rõ hơn công việc của Hội trong các hợp tác xã, đội sản xuất, giúp quần chúng giải đáp những vướng mắc, hiến kế giải quyết những vấn đề do thực tế sản xuất và đời sống đặt ra ở từng cơ sở; tệ hành chính quan liêu trong hoạt động của Hội cũng được khắc phục một phần… Song còn nhiều nhược điểm, thiếu sót: còn nhiều nông dân đứng ngoài Hội, số đông hội viên chất lượng còn thấp. Số tổ Hội có hoạt động, sinh hoạt đều, có nội dung đúng tính chất một đoàn thể quần chúng cách mạng chưa nhiều (trên 30% tổng số xã, phường). Những nơi sinh hoạt tổ kết hợp với đội sản xuất, nội dung trùng lặp, hội viên khó nhận rõ sự khác nhau giữa hai tổ chức… Cơ sở Hội yếu kém còn chiếm tỷ lệ đáng kể, gần 20% tổng số xã trong toàn tỉnh… Nhìn chung, trình độ đội ngũ cán bộ Hội ở xã, huyện, tỉnh đều còn thấp so với yêu cầu”.

Thực tế đó đặt ra yêu cầu cần phải củng cố và tăng cường phong trào nông dân và hoạt động của tổ chức hội nông dân các cấp.

Từ ngày 15 đến ngày 17-7-1984, tại Nhà văn hoá trung tâm, diễn ra Đại hội đại biểu Hội Liên hiệp nông dân tập thể Bình Trị Thiên lần thứ II.

Báo cáo của Ban Chấp hành khoá I trình bày trước đại hội đã nêu bật những thành tựu và hạn chế của phong trào nông dân và hoạt động của Hội Liên hiệp nông dân tập thể tỉnh từ đại hội lần thứ nhất đến đầu năm 1984, đồng thời đề ra những nhiệm vụ chủ yếu trong hai năm 1984-1985.

Căn cứ Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ III, trên cơ sở chức năng nhiệm vụ của Hội, Đại hội xác định nhiệm vụ của giai cấp nông dân tập thể và của tổ chức Hội trong những năm 1984 - 1986 là: “Tăng  cường công tác chính trị, tư tưởng, nâng cao hơn nữa giác ngộ xã hội chủ nghĩa của cán bộ, hội viên và nông dân, thấm nhuần tư tưởng công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa; chỉ có công nghiệp hoá mới thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu; động viên nông dân “cùng cả nước, vì cả nước”, phát huy cao độ ý thức tự lực, tự cường, sức mạnh làm chủ tập thể, sức mạnh tổng hợp, tinh thần cảnh giác cách mạng, kiên định cuộc đấu tranh giữa hai con đường, phát huy ưu điểm, thành tích, tích cực đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực, khắc phục những yếu kém, tồn tại, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả trong phong trào thi đua lao động sản xuất, thực hành tiết kiệm; tham gia cải tiến quản lý hợp tác xã, thực hiện khoán sản phẩm đúng Chỉ thị 100 của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Nghị quyết 154 của Hội đồng Bộ trưởng và Nghị quyết của Thường vụ Tỉnh uỷ; củng cố hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trong nông nghiệp; chấp hành nghiêm chỉnh các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Tập trung sức phát triển nông nghiệp toàn diện để công nghiệp hoá, quyết đưa nông nghiệp một bước lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh thâm canh đồng bộ, hướng dẫn phát triển đúng hướng kinh tế gia đình, đẩy mạnh đồng thời 3 cuộc cách mạng ở nông thôn; xây dựng người nông dân tập thể từng bước thành người lao động mới, xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa. Ra sức xây dựng củng cố tổ chức hội vững mạnh về mọi mặt, nhất là tổ chức cơ sở của hội thực sự là cầu nối liền giữa Đảng với nhân dân, thành viên tích cực của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nòng cốt của hợp tác xã nông nghiệp, chỗ dựa vững chắc của chính quyền ở nông thôn, tăng cường công nông liên minh, góp phần tích cực vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” [38].

Báo cáo còn đề cập nhiệm vụ xây dựng củng cố tổ chức Hội về chính trị tư tưởng, tổ chức và phương thức hoạt động.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành gồm 33 uỷ viên. Ban Chấp hành bầu Ban Thường vụ Hội gồm các đồng chí: Lê Sáu, Lê Viết Phong, Lê Truý, Nguyễn Đức Khanh, Phan Kỉnh, Nguyễn Thị Tòng, Trần Xuân Ái, Nguyễn Quýnh… Đồng chí Lê Sáu được bầu làm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch là Lê Viết Phong và Lê Truý.

Thành công của Đại hội ghi dấu bước phát triển mới và khẳng định vai trò, vị thế của tổ chức Hội nông dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên quê hương Bình Trị Thiên.

Nhằm đánh giá mười năm công tác vận động nông dân, xây dựng tổ chức và hoạt động của Hội, ngày 12-3-1985, Hội Liên hiệp nông dân tập thể tỉnh đã tổ chức hội nghị tổng kết. Báo cáo đánh giá toàn diện bước trưởng thành của phong trào nông dân và tổ chức hội 10 năm sau giải phóng.

Báo cáo tổng kết khẳng định: “mười năm, kể từ ngày được giải phóng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nông dân Bình Trị Thiên đã trải qua một thời kỳ phấn đấu mới đầy khó khăn, thử thách và trưởng thành về nhiều mặt có ý nghĩa cách mạng sâu sắc”.

Về phong trào nông dân, trải qua thời kỳ đầu đầy khó khăn, thử thách, phong trào nông dân có bước chuyển biến mới. Nông dân tham gia tích cực phong trào khôi phục sản xuất, ổn định đời sống, giải quyết hậu quả chiến tranh, cải tạo và xây dựng quan hệ sản xuất mới trong nông nghiệp; tham gia phong trào cải tiến quản lý hợp tác xã, hoàn chỉnh công tác khoán sản phẩm, tiếp tục củng cố tăng cường các tổ chức kinh tế tập thể, phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, từng bước đưa nông nghiệp tiến lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.

Ở các vùng núi, gò đồi, đồng bằng, vùng biển đều có các điển hình tiên tiến về sản xuất nông nghiệp. Thực hiện chủ trương tiến quân chiếm lĩnh gò đồi, khai thác vùng biển, mô hình kinh tế toàn diện phát triển ngày càng nhiều. Với phương châm hướng mạnh vào việc sản xuất nông sản hàng hoá có giá trị kinh tế trên mỗi đơn vị diện tích gieo trồng, một số hợp tác xã đã chuyển đổi cơ cấu cây trồng, sản xuất các nông phẩm xuất khẩu đạt hiệu quả kinh tế cao như Vinh Xuân, Vinh Thanh (Hương Phú), Vinh Mỹ (Phú Lộc)...

Các tổ chức Hội đã vận động nông dân tham gia tích cực các hoạt động văn hóa xã hội, xây dựng nông thôn mới, con người mới xã hội chủ nghĩa, tăng cường liên minh công - nông;  bồi dưỡng nâng cao ý thức và năng lực làm chủ tập thể cho hội viên; giáo dục hội viên và nông dân thực hiện nền quốc phòng toàn dân, giữ vững an ninh chính trị, chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc.

Về tổ chức và hoạt động của Hội, dưới sự lãnh đạo của  cấp ủy Đảng, trực tiếp là Đảng đoàn và sự hướng dẫn của Ban Chấp hành Hội Liên hiệp nông dân tập thể tỉnh, tổ chức Hội các cấp trong mười năm đã có bước phát triển đáng kể. Đến năm 1985, có 33 ủy viên tham gia Ban Chấp hành tỉnh Hội, có 20 ủy viên chuyên trách từ cấp huyện đến cấp tỉnh, 298 ủy viên Ban Chấp hành huyện, thị, thành, trong đó có 225 chuyên trách cấp cơ sở và cấp huyện, 2.896 ủy viên Ban Chấp hành xã, 3.994 ủy viên Ban Chấp hành chi Hội, 13.962 tổ trưởng, tổ phó đã qua tập huấn bồi dưỡng ngắn ngày; toàn tỉnh có trên 39 vạn hội viên, chiếm tỷ lệ 76% tổng số nông dân.

Qua các hình thức sinh hoạt chính trị của Hội, nhất là đại hội 3 cấp, chất lượng hội viên và cán bộ Hội tăng lên rõ rệt. Trong xây dựng Hội, đã chú ý xây dựng cấp huyện, góp phần xây dựng huyện thành đơn vị kinh tế nông - lâm nghiệp, một nhiệm vụ có tầm quan trọng chiến lược trong việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.

Các cấp Hội đã xây dựng được nội dung cụ thể và phương thức hoạt động thiết thực hơn, tránh tình trạng lúng túng, có lúc dẫm đạp lên công việc của ngành, đoàn thể khác. Nhiều nơi đẩy mạnh công tác giáo dục, vận động hội viên tham gia tích cực vào việc xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh, xây dựng quy ước khoán mới; làm nòng cốt trong việc thực hiện và giám sát, kiểm tra, đôn đốc việc thực hiện chọn lựa cán bộ, tham gia đào tạo bồi dưỡng và giới thiệu với đại hội xã viên, đưa vào bộ máy của các tổ chức kinh tế tập thể. Hội còn động viên tinh thần đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau với tình làng, nghĩa xóm trên tinh thần “nhiễu điều phủ lấy giá gương”.

Hội Liên hiệp nông dân tập thể huyện Hương Điền tổ chức các hình thức như sinh hoạt chuyên đề, nghe nói chuyện về khoa học kỹ thuật, phổ biến kinh nghiệm ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, sinh hoạt các câu lạc bộ “thâm canh giỏi”, “làm phân bón giỏi”, “trồng cây giỏi”...

Nhiều tổ chức Hội sinh hoạt bàn bạc cách khắc phục tình trạng sụt khoán, chậm giao nộp sản phẩm; quan tâm đến các gia đình chính sách, bộ đội tái ngũ, gia đình neo đơn; bàn về phát triển kinh tế gia đình đúng hướng, tiêu chuẩn xây dựng gia đình văn hóa mới, con người mới, xây dựng thôn xóm đoàn kết, lành mạnh.

Việc xây dựng quy chế hoạt động của Ban Chấp hành hội cấp tỉnh, huyện, thị, thành ngày càng đi sát với thực tế sản xuất đời sống, phát huy sức mạnh tập thể.

Báo cáo tổng kết cũng nêu rõ một số mặt hạn chế của phong trào nông dân và hoạt động Hội như: “chưa mạnh, chưa đều, thiếu vững chắc; còn lúng túng trong phương thức, trong mối quan hệ với các ngành, nhất là với hợp tác xã nông nghiệp. Sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng nhiều nơi chưa chặt chẽ, nhiều tổ chức cơ sở Đảng thiếu quan tâm, có khi điều động, trưng dụng cán bộ làm việc không đúng chức năng nhiệm vụ của Hội”.

Từ thực tiễn đó, báo cáo rút ra một số bài học kinh nghiệm về sự cần thiết phải bám sát chức năng, nhiệm vụ của tổ chức Hội, về lựa chọn điểm trong chỉ đạo, phân định rõ mối quan hệ với các đoàn thể, tổ chức khác ở cơ sở để phối hợp thực hiện nhằm không ngừng nâng cao vị thế của tổ chức Hội.

Ngày 29-1-1985, Ban Bí thư ban hành chỉ thị giao đất, giao rừng đến hộ nông dân, gắn quyền hạn, trách nhiệm và lợi ích vật chất để khuyến khích nông dân tích cực lao động sản xuất; Chỉ thị 56 về củng cố và tăng cường quan hệ sản xuất ở nông thôn miền núi, nhằm đẩy mạnh 3 cuộc cách mạng, nâng cao đời sống của nhân dân vùng cao. Ngày 17-6-1985, Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 65 về việc tiếp tục củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế thủy sản, nông lâm nghiệp và ngành nghề miền biển. Đến ngày 22-6-1985, Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số 67CT/TW về việc cải tiến quản lý kinh tế, hoàn thiện cơ chế khoán sản phẩm cuối cùng đến nhóm và người lao động trong các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất nông nghiệp.

Thực hiện nghị quyết Đại hội, những chủ trương mới của Trung ương và các nghị quyết của Tỉnh ủy, dưới sự lãnh đạo của cấp ủy các cấp, phong trào nông dân và hoạt động của các cấp Hội tiếp tục phát triển.

Đến tháng 3-1985, toàn tỉnh có 22.000 nông dân định canh, định cư ở trên 50 điểm. Với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, nhà nước chỉ hỗ trợ 16 triệu đồng nhưng đồng bào các dân tộc đã khai hoang được 13.000 ha, xây dựng 44 công trình thủy lợi, đắp hơn 300 km đường giao thông, làm 9 cầu. Các xã định canh định cư kết hợp vận động đưa các hộ nông dân vào làm ăn tập thể. Xã A Ngo (A Lưới) thâm canh lúa nước đạt năng suất cao (5-6 tấn/ha), chấm dứt nạn đói giáp hạt kinh niên. Ở Phú Lộc, đồng bào các dân tộc thiểu số đạt bình quân lương thực đầu người 450kg/năm. Công tác chăn nuôi, trồng và bảo vệ rừng, xây dựng vườn rừng, đào ao nuôi cá... phát triển nhanh, góp phần ổn định và nâng cao đời sống của đồng bào các dân tộc.

Cuối năm 1985, cơn bão số 8 đổ bộ vào địa bàn tỉnh, gây thiệt hại nghiêm trọng về người và tài sản. Thành phố Huế có 33.257 ngôi nhà bị hư hại nặng, trong đó có 690 cái bị trôi. Sản lượng lương thực chỉ đạt 25,4 vạn tấn (năm 1984 đạt 46,3 vạn tấn). Sức kéo thiếu nghiêm trọng do trâu bò bị chết quá nhiều (Hương Điền 248 con, Phú Lộc 139 con, Hương Phú 378 con, Huế 244 con). Đời sống nông dân, đặc biệt là nông dân vùng núi và vùng biển gặp nhiều khó khăn.

Ngay sau cơn bão, Tỉnh ủy tổ chức hội nghị bất thường, ra nghị quyết về những nhiệm vụ cấp bách nhằm khắc phục hậu quả thiên tai. Cấp ủy Đảng thành phố Huế và các huyện Phú Lộc, Hương Phú, Hương Điền cũng ban hành nghị quyết bất thường lãnh đạo việc khắc phục hậu quả bão lụt.

Thực hiện nghị quyết của Đảng, các cấp Hội bám cơ sở, vận động nông dân giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau trong khó khăn, hoạn nạn. Các cơ quan Trung ương và giai cấp nông dân nhiều địa phương trong cả nước đã ủng hộ giúp đỡ tích cực. Theo báo cáo về tình hình khắc phục hậu quả bão lụt ngày 6-12-1985 của Ban Nông nghiệp Tỉnh uỷ Bình Trị Thiên thì ngày 30-11-1985, hàng hoá cứu trợ của Trung ương và các tỉnh đã về đến các huyện, giải quyết kịp thời những khó khăn trước mắt. Cụ thể như sau: “Huế: 7.510.000 đồng, 500 tấn gạo, 22.000 chiếc áo quần, 3.000 quyển vở học sinh, 2.000m giấy dầu, 1.500 chiếc chiếu... Hương Điền: giải quyết cho 18.224 hộ với 95.029 khẩu gồm 250 tấn gạo, 10.500 lít dầu, 1.500m nilon đi mưa, 2.973m giấy dầu lợp nhà”.

Đầu năm 1986, vừa khẩn trương khắc phục hậu quả bão lụt, nông dân thành phố Huế và các huyện vừa tích cực tham gia các phong trào, nhất là làm thủy lợi. Hàng triệu ngày công được huy động tham gia các công trình thủy nông, tu sửa hàng trăm cây số đường giao thông nông thôn. Phong trào ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, đưa giống lúa mới thích nghi với đồng ruộng được nhiều hợp tác xã tham gia. Có hợp tác xã đạt tỷ lệ giống lúa mới từ 95% đến 100%. Các phong trào trồng cây công nghiệp, cây xuất khẩu, đánh bắt, nuôi trồng thủy sản... được nông dân hưởng ứng mạnh mẽ. Kinh tế tập thể và kinh tế gia đình đều phát triển.

Một trong những đơn vị điển hình trong nông nghiệp của tỉnh Bình Trị Thiên là hợp tác xã Thủy Dương (Hương Phú). Thực hiện Chỉ thị 100 của Ban Bí thư, Đảng bộ xã Thủy Dương đã ban hành nghị quyết xác định phương hướng phát triển nông nghiệp toàn diện, “lấy cây lúa làm nền để phát triển chăn nuôi, phát triển ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, nhằm phát triển nông nghiệp toàn diện” [39]. Nhờ đầu tư kỹ thuật, tăng cường thâm canh và quản lý khoa học, hợp tác xã Thủy Dương là đơn vị có năng suất lúa cao nhất tỉnh: năm 1981 6,7 tấn/ha, 1983 11tấn/ha, bộ mặt nông thôn có nhiều thay đổi. Năm 1985 hợp tác xã vinh dự được Nhà nước tặng danh hiệu Anh hùng Lao động.

Nhìn chung trong toàn tỉnh, phong trào đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp toàn diện được chú trọng. Báo cáo Phong trào nông dân và hoạt động của Hội Nông dân tập thể tỉnh 9 tháng đầu năm 1986 đánh giá: “ba mục tiêu lớn của nông nghiệp: lương thực, thực phẩm cho nhu cầu xã hội, nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, nông sản cho xuất khẩu... đạt xấp xỉ kế hoạch là nỗ lực chung của toàn Đảng, toàn dân, trong đó có sự phấn đấu liên tục ngày đêm, một nắng hai sương tham gia làm chủ sản xuất của giai cấp nông dân tập thể. Trong lúc đời sống nhiều vùng còn thiếu thốn, hợp đồng hai chiều với nông dân có nơi chưa sòng phẳng, giá cả đảo lộn, giá nông sản quá thấp so với giá bán vật tư và hàng công nghiệp nhưng nghĩa vụ với Nhà nước, cả lương thực, thực phẩm, nông sản xuất khẩu, nhiều huyện, xã, hợp tác xã hoàn thành sớm, tiết kiệm gửi đều đặn. Phong trào xây dựng nông thôn mới, nếp sống văn minh lành mạnh, xây dựng nền quốc phòng toàn dân, giữ vững trật tự an ninh thôn xóm, xây dựng xã phường an toàn làm chủ được nông dân hăng hái hưởng ứng”.

Về hoạt động của Hội, khác với các hội ở nhiều tỉnh thành của miền Bắc, Hội Liên hiệp nông dân tập thể tỉnh Bình Trị Thiên vẫn là tổ chức độc lập, không nhập vào thành một bộ phận của Ban Nông nghiệp Tỉnh ủy. Cán bộ hội các cấp đã tăng cường đi sâu, đi sát cơ sở, vận động hội viên và nông dân thanh toán công nợ sòng phẳng, động viên hội viên làm tốt vai trò nòng cốt trong việc thực hiện các khâu tập thể đảm nhận, tạo điều kiện cho các hộ chính sách, neo đơn làm được phần ruộng khoán có thu nhập; giáo dục hội viên và nông dân ý thức xây dựng Đảng, tham gia xây dựng đề cương báo cáo chính trị của Đảng bộ, góp ý xây dựng cán bộ, đảng viên. Các cấp Hội đã nghiêm chỉnh quán triệt và tham gia góp ý vào dự thảo đề cương Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng; thảo luận biện pháp đẩy mạnh thi đua hành động cách mạng, lập thành tích đón chào đại hội Đảng các cấp.

Sau đó, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bình Trị Thiên lần thứ IV diễn ra từ ngày 21-10 đến 26-10-1986 đã quyết định những mục tiêu, nhiệm vụ chính trị quan trọng. Liên quan đến lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và nông dân, Nghị quyết đại hội chỉ rõ: “phát triển mạnh mẽ, vững chắc, toàn diện nông nghiệp..., đẩy mạnh xuất nhập khẩu gắn với sản xuất công - nông nghiệp, củng cố và không ngừng hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thúc đẩy sản xuất phát triển..., xây dựng nền văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa”.

Tiếp đến, vào tháng 12-1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã quyết định đổi mới toàn diện đất nước, đẩy mạnh phát triển nông nghiệp trên cơ sở đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp; thực hiện chương trình kinh tế lớn là sản xuất lương thực, thực phẩm, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nông dân. Đại hội chủ trương đưa nông nghiệp phát triển theo chiều hướng sản xuất lớn nhằm đáp ứng yêu cầu chủ yếu tăng nhanh khối lượng và năng suất hàng hóa nông sản. Nông nghiệp phải được ưu tiên, đáp ứng những nhu cầu về đầu tư xây dựng cơ sở vật chất và lao động kỹ thuật; giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế quốc doanh với hợp tác xã, cải tiến quản lý trong nội bộ hợp tác xã, hoàn thiện phương thức khoán đến nhóm và người lao động gắn liền với việc xây dựng quan hệ sản xuất mới.

Phấn khởi đón nhận những chủ trương của Đảng, giai cấp nông dân và tổ chức hội bước vào thực hiện công cuộc đổi mới trên lĩnh vực nông nghiệp.

Nhằm đẩy mạnh hoạt động của tổ chức hội theo tinh thần đổi mới của Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI, ngày 24-3-1987, Ban Bí thư Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị 05-CT/TW về tổ chức Hội Liên hiệp nông dân tập thể Việt Nam và Đại hội toàn quốc lần thứ nhất của hội.

Chỉ thị nêu rõ: cần xây dựng Hội Liên hiệp nông dân tập thể Việt Nam vững mạnh, có hệ thống từ Trung ương đến cơ sở. Hội là một tổ chức chính trị xã hội rộng rãi của nông dân lao động, dưới sự lãnh đạo của Đảng, có nhiệm vụ chủ yếu là tập hợp, đoàn kết, giáo dục nông dân nâng cao ý thức và năng lực làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa, thực hiện chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước trong nông thôn; tổ chức các phong trào hành động cách mạng của nông dân trong việc thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội và an ninh quốc phòng, nhất là trong việc sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp, tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ sản xuất mới và nông thôn mới xã hội chủ nghĩa. Hội là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thuộc khối dân vận và có quan hệ chặt chẽ với khối nông nghiệp.

Chỉ thị 05 thể hiện tinh thần đổi mới nhận thức của Đảng về vị trí, vai trò và sự cần thiết của tổ chức Hội Nông dân tập thể trong cả nước.

Triển khai thực hiện nội dung chỉ thị, các cấp Hội ở Bình Trị Thiên khẩn trương chuẩn bị đại hội Hội Liên hiệp nông dân tập thể các cấp.

Đại hội Hội Liên hiệp nông dân tập thể cấp cơ sở đến cấp huyện, thị, thành trong toàn tỉnh tiến hành từ tháng 5-1986 đến tháng 6-1987 đã thể hiện tinh thần đổi mới trên cả 3 mặt tư duy, phong cách và tổ chức cán bộ. Đông đảo hội viên tham gia thảo luận dân chủ, mạnh dạn tự phê bình và phê bình; kiến nghị những vấn đề thiết thực với các hợp tác xã, tập đoàn sản xuất, các cấp ủy Đảng và chính quyền.

Từ ngày 15 đến 27-7-1987, tại hội trường Trường Đại học Tổng hợp Huế diễn ra Đại hội đại biểu Hội Liên hiệp nông dân tập thể tỉnh lần thứ III. Với tinh thần nghiêm túc nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng ưu điểm, khuyết điểm, thực sự đổi mới tư duy, đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội, Báo cáo chính trị trình bày tại Đại hội nêu rõ: “Đại hội lần này nhằm khơi dậy truyền thống cách mạng, khẳng định vị trí, vai trò và trách nhiệm của giai cấp nông dân và hội nông dân tập thể trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, phát động nông dân tự phê bình và góp ý kiến với Đảng, với chính quyền và tổ chức kinh tế xã hội, xác định phương hướng hoạt động của Hội, động viên mọi sức lực, trí tuệ của nông dân toàn tỉnh thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế xã hội các năm 1986 - 1990, đặc biệt là 3 chương trình kinh tế lớn; xây dựng Hội ngày càng vững mạnh, đáp ứng yêu cầu tình hình nhiệm vụ mới”.

Báo cáo chính trị đánh giá tình hình nông dân, tổ chức và hoạt động của Hội nông dân tập thể trong những năm từ 1984 đến 1987. Phong trào hợp tác hoá tiếp tục phát triển. Năm 1987, toàn tỉnh có 753 hợp tác xã, tập đoàn sản xuất nông ngư nghiệp. Các huyện miền núi đã vận động nông dân thực hiện một bước định canh, định cư cho trên 36.000 người trên tổng số 65.000 người. Nhận rõ vai trò của kinh tế gia đình, các cấp Hội chú ý hướng dẫn hội viên và nông dân làm kinh tế vườn, phát triển ngành nghề tiểu thủ công, tăng nguồn thu nhập, cải thiện đời sống nông dân. Năng suất và chất lượng các loại cây trồng đều tăng, nhất là cây lương thực. Nông sản xuất khẩu chiếm trên 26% tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh. Phong trào “xã, hợp tác xã một triệu cây” đã góp phần tăng diện tích rừng trồng mới hàng năm lên 13.000 ha. Nhờ những nỗ lực lớn về nông nghiệp, tỉnh đã tự giải quyết được một phần quan trọng nhu cầu về lương thực cho xã hội.

Bên cạnh các phong trào sản xuất tiết kiệm, thực hiện khoán sản phẩm trong nông nghiệp, nông dân còn chăm lo củng cố, hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, tăng cường lực lượng sản xuất của các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất; tham gia xây dựng củng cố các hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng, lập hợp tác xã nông - công - thương - tín, góp phần phát triển sản xuất, tăng cường lực lượng sản xuất.

Khẳng định những thành tích đạt được, đồng thời báo cáo cũng nêu một số hạn chế như: tốc độ phát triển nông nghiệp còn chậm. Năng suất lúa bình quân chưa vượt quá 22 tạ/ha/vụ. Cuộc vận động chiếm lĩnh xây dựng kinh tế gò đồi đạt kết quả thấp. Về củng cố quan hệ sản xuất, bên cạnh một số đơn vị làm ăn giỏi như Quảng Phước (Hương Điền), Thuỷ Dương (Huế)…, diện yếu kém còn khá rộng. Nhiều nơi tình trạng “khoán trắng” còn phổ biến; bộ máy quản lý cồng kềnh; 40 % hợp tác xã, tập đoàn sản xuất chưa phát triển ngành nghề. Có tình trạng vùng trọng điểm về lương thực mà không giàu vì khép kín; một bộ phận khá lớn nông dân còn chịu ảnh hưởng nặng tư tưởng bao cấp, trông chờ, ỷ lại; chưa kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân với lợi ích tập thể và xã hội; nghĩa vụ với Nhà nước chưa sòng phẳng; hợp tác xã còn bao cấp giá; thu nhập từ kinh tế tập thể thua thu nhập từ kinh tế gia đình; giá trị ngày công thấp, phải bù khoán; nhiều nông dân không muốn nhận khoán; tệ lãng phí, tham ô, quyền làm chủ bị vi phạm; vật tư cung ứng không đủ, không đảm bảo chất lượng, không kịp thời vụ; sản phẩm làm ra bị ép cấp, ép giá. Người sản xuất không phấn khởi. Nhiều nông dân coi việc lao động ở hợp tác xã, tập đoàn sản xuất như một gánh nặng hoặc một nhiệm vụ chính trị phải tham gia. Đáng chú ý là một số người giàu lên, trong đó có kẻ làm ăn bất chính, có cả cán bộ, đảng viên có chức, có quyền. Phần lớn người nghèo khó là những hộ thiếu lao động, thiếu vốn, thiếu công cụ. Nhiều tập đoàn sản xuất ở miền núi, miền biển, đầm phá mang tính hình thức.

Về tình hình tổ chức và hoạt động của Hội, các cấp Hội từ tỉnh đến cơ sở đã bám sát nhiệm vụ chính trị, mục tiêu kinh tế xã hội từng thời kỳ của Đảng bộ, vận động, giáo dục hội viên nhận rõ thuận lợi và khó khăn, giúp nông dân thấy được mối quan hệ giữa 3 lợi ích trong mỗi chính sách để tự giác chấp hành; vận động nông dân thực hành tiết kiệm, làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước. Hội đặc biệt chú trọng giáo dục, quán triệt trong hội viên và nông dân những quan điểm của Đảng coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, quan điểm tự lực tự cường, đi lên từ tiềm năng đất đai, lao động, rừng, biển và cơ sở vật chất kỹ thuật; lựa chọn cán bộ, hội viên tốt, đào tạo, bồi dưỡng, giới thiệu với đại hội xã viên tham gia bộ máy quản lý của tổ chức kinh tế tập thể.

Qua đại hội 3 cấp, tổ chức Hội được củng cố và kiện toàn. Từ năm 1984 đến năm 1987, có lúc cuộc đấu tranh để phát huy vai trò của Hội diễn ra gay gắt, nhưng với sự kiên trì, lại được chủ trương mới của Trung ương soi sáng, vai trò, vị trí của tổ chức Hội ngày càng được khẳng định vững chắc.

Đến năm 1987, tổng số hội viên trong toàn tỉnh là 415.000 người, chiếm 74% lao động trong nông thôn, sinh hoạt trong 935 chi Hội và 5.201 tổ Hội. Công tác đào tạo, bồi dưỡng được chú ý. Trong nhiệm kỳ đã tập huấn ngắn ngày cho 2.316 cán bộ Hội các cấp từ tỉnh đến tổ Hội.

Một số hạn chế của tổ chức Hội cũng được báo cáo đề cập như vai trò còn hạn chế, chưa sâu sát cơ sở; tổ chức Hội chưa thực sự là chỗ dựa của hội viên; sinh hoạt hội chưa có nề nếp…

Từ thực tiễn phong trào nông dân và hoạt động của Hội Nông dân tập thể, đại hội xác định phương hướng hoạt động trong những năm 1987 - 1990 như sau: “tập trung vào 3 chương trình kinh tế lớn, tiến hành đồng thời 3 cuộc cách mạng ở nông thôn, đẩy mạnh phong trào thi đua 3 giỏi làm tròn nghĩa vụ với Nhà nước, vừa bảo đảm quyền lợi của nông dân và không ngừng chăm lo đời sống nông dân; đấu tranh cống tiêu cực, bất công và các tệ nạn xã hội; tham gia xây dựng quốc phòng toàn dân, giữ vững an ninh chính trị, chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch; xây dựng cuộc sống văn minh lành mạnh ở nông thôn, bồi dưỡng năng lực làm chủ, xây dựng người nông dân mới xã hội chủ nghĩa, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa” [40].

 Trước mắt, tập trung vào các phong trào thực hiện thắng lợi 3 chương trình kinh tế lớn, xây dựng hoàn thiện quan hệ sản xuất, phát triển lực lượng sản xuất; tham gia xây dựng nếp sống mới ở nông thôn, chăm lo đời sống hội viên và nông dân; phát động nông dân tham gia đấu tranh chống các hiện tượng tiêu cực trong nông thôn; thực hiện nền quốc phòng toàn dân, chống chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, đồng thời phải chăm lo xây dựng tổ chức Hội ngày càng vững mạnh.

Với tinh thần đổi mới, Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Hội Liên hiệp nông dân tập thể tỉnh khoá III với 33 ủy viên. Ban Chấp hành bầu Ban Thường vụ, Chủ tịch và các Phó Chủ tịch. Đồng chí Lê Sáu được bầu giữ chức Chủ tịch. Các đồng chí Nguyễn Thanh Giai, Lê Ngọc Viếng được bầu giữ chức Phó Chủ tịch.

Đại hội đại biểu Hội Liên hiệp nông dân tập thể tỉnh lần thứ III ghi dấu bước phát triển mới của phong trào nông dân, nhất là khẳng định rõ vai trò và vị thế của Hội nông dân trong hệ thống chính trị trên tinh thần đổi mới. Thành công của Đại hội mở ra thời kỳ phát triển mới của phong trào nông dân và hoạt động của tổ chức Hội nông dân các cấp.

Cuối năm 1987, đầu năm 1988, cơ chế khoán theo Chỉ thị 100 của Ban Bí thư sau một thời gian phát huy tác dụng đã bộc lộ những hạn chế. Với cơ chế Khoán 100, người nông dân chỉ thực sự làm chủ 3 khâu, còn 5 khâu vẫn do hợp tác xã điều hành. Do đó, người nông dân không yên tâm đầu tư, thâm canh; mức khoán bị điều chỉnh tùy tiện theo từng vụ. Khi năng suất tăng, lập tức mức khoán bị điều chỉnh tăng theo làm cho động lực ban đầu của chế độ khoán bị triệt tiêu. Phương thức phân phối vẫn lấy công điểm làm tiêu chuẩn, dẫn đến hiện tượng rong công phóng điểm (đặc biệt trong các khâu do hợp tác xã điều hành), làm tăng chi phí, tăng mức đóng góp của xã viên. Ngoài ra, tệ quan liêu, lãng phí, tham ô còn làm cho xã viên mất lòng tin vào hợp tác xã, không thiết tha với ruộng khoán. Tình trạng dây dưa công nợ, khê đọng sản phẩm ngày càng nhiều. Mặc dù một số hợp tác xã đã cải tiến công tác khoán nhưng hiệu quả vẫn chưa cao.

Trước tình hình đó, ngày 5-4-1988, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 10 - NQ/TW về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp. Nội dung của nghị quyết là sắp xếp và tổ chức lại sản xuất nông nghiệp, củng cố và mở rộng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng đúng đắn các thành phần kinh tế. Đổi mới cơ chế quản lý hợp tác xã trên cơ sở điều chỉnh quan hệ sở hữu (giao ruộng khoán ổn định trên 15 năm cho xã viên, những tài sản mà hợp tác xã quản lý kém hiệu quả được chuyển nhượng hoặc khoán cho xã viên). Thực hiện khoán gọn đến hộ gia đình. Hộ được quyền tự chủ đầu tư theo định hướng kế hoạch của hợp tác xã mà đại hội xã viên thông qua. Mức khoán của hợp tác xã cho xã viên được ổn định trong 5 năm và chỉ được sửa đổi khi điều kiện vật chất kỹ thuật đã thay đổi. Các hộ xã viên được phát huy quyền làm chủ về kinh tế và được đảm bảo thu nhập khoảng trên dưới 40% sản lượng khoán trở lên. Các thành phần kinh tế được Nhà nước khuyến khích phát triển và liên doanh liên kết với nhau. Nghị quyết còn đề cập đến một số vấn đề về quản lý nhà nước trong nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới xã hội chủ nghĩa, tăng cường tổ chức cơ sở Đảng và phát huy vai trò của các đoàn thể quần chúng ở nông thôn, nhất là Hội nông dân.

Quán triệt Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị và các nhiệm vụ kinh tế xã hội, các cấp Hội nông dân từ tỉnh đến cơ sở đã tổ chức, hướng dẫn nông dân thực hiện các phong trào đẩy mạnh xuất, thực hành tiết kiệm, làm nghĩa vụ nộp thuế, thanh toán các hợp đồng với Nhà nước và các đơn vị, tham gia củng cố các tuyến biên giới, ủng hộ Trường Sa, giúp đỡ gia đình nghèo thuộc diện chính sách và đoàn kết tương trợ lẫn nhau.

Bên cạnh việc cải tiến cơ chế khoán sản phẩm trong các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất theo tinh thần Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị, xác định tính chất quan trọng của công tác định canh định cư đối với sự ổn định và phát triển ở miền núi, ngày 28-4-1988, Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Nghị quyết số 10-NQ/TV về định canh định cư đồng bào các dân tộc ít người. Nghị quyết nêu rõ một số kết quả và hạn chế trong công tác chỉ đạo định canh, định cư, phát triển kinh tế xã hội ở miền núi.

Về kết quả, đến tháng 4-1988 đã tiến hành định canh, định cư trong 35 xã, đạt tỷ lệ 52% số hộ và 50% số nhân khẩu. Ở những địa phương này, kỹ thuật sản xuất có tiến bộ, chăn nuôi phát triển; kinh tế gia đình bắt đầu có sản phẩm hàng hóa; văn hóa, giáo dục, y tế có chuyển biến khá... Tuy vậy, việc triển khai còn chậm, chưa vững chắc; một số nơi sản xuất phát triển chậm, xảy ra tình trạng thiếu đói, đồng bào quay lại du canh du cư; việc xây dựng quan hệ sản xuất còn nặng về hình thức, rập khuôn, máy móc, chưa xuất phát từ đặc điểm, tập quán, trình độ sản xuất của đồng bào. Các nông trường, lâm trường quốc doanh quy hoạch chiếm nhiều đất và rừng, chưa hỗ trợ tích cực cho công tác định canh, định cư của đồng bào tại chỗ. Việc đào tạo, bố trí sử dụng cán bộ tại chỗ chưa được quan tâm đúng mức. Một số cán bộ không sát cơ sở, không sát dân...

Từ thực tế đó, nghị quyết vạch ra phương hướng, nhiệm vụ và các biện pháp lớn nhằm đẩy mạnh công tác quan trọng này.

Quan điểm và mục tiêu phát triển được nghị quyết xác định như sau: “từ đất đai, tài nguyên, lao động tại chỗ mà đi lên phù hợp với từng vùng, lấy nông - lâm làm cơ sở; từ kinh tế vườn mà đi lên, từng bước phát triển sản xuất hàng hóa. Phấn đấu đến năm 1995 căn bản hoàn thành công tác định canh định cư, ổn định được địa bàn ăn, ở, sản xuất của đồng bào”.

Ở các huyện đồng bằng, sau một thời gian triển khai thực hiện, ngày 27-9-1988, Sở Nông nghiệp đã có báo cáo sơ kết cơ chế khoán sản phẩm trong các hợp tác xã và tập đoàn sản xuất nông nghiệp theo tinh thần Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị. Theo báo cáo, đến tháng 9-1988, toàn tỉnh có 350/695 hợp tác xã cải tiến khoán sản phẩm, trong đó Huế 14/ 32, Hương Phú 10/35, Hương Điền 16/ 61 và Phú Lộc 10/34.

Thực hiện cơ chế khoán mới đã giải phóng được năng lực sản xuất. Tình hình trả lại ruộng đất không còn nữa. Nông dân yêu cầu nhận thêm ruộng khoán. Nhiều nơi có bình quân diện tích sử dụng cao cũng khoán hết cho xã viên. Nguồn lao động được sử dụng có hiệu quả. Nhiều hợp tác xã đẩy mạnh chuyên môn hóa gắn với kinh doanh tổng hợp, tạo nên nguồn thu nhập cao hơn.  Công việc điều hành trong các hợp tác xã được thực hiện rõ ràng cụ thể hơn. Trên cơ sở đơn giá cày kéo, hợp tác xã đã điều hành, huy động được sức kéo của gia đình xã viên; khâu nước, bảo vệ thực vật điều tiết chủ động và kịp thời hơn. Nhiều hợp tác xã đã định được hệ thống đơn giá đầy đủ và hợp lý trên sào ruộng khoán. Các đơn giá này được xã viên tham gia đóng góp ý kiến xây dựng. Về phân phối sản phẩm, sử dụng phương án ăn chia mới, người xã viên biết được thu nhập của họ ngay khi ký hợp đồng giao khoán với hợp tác xã. Thực hiện cơ chế khoán mới, bộ máy hợp tác xã được tổ chức lại gọn nhẹ hơn (giảm từ 30% đến 50%).

Để nắm rõ tình hình triển khai Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị ở cơ sở, Ban Kinh tế Tỉnh ủy và Hội Nông dân tỉnh đã phối hợp tiến hành kiểm tra ở một số hợp tác xã thuộc huyện Phú Lộc, kết quả như sau:

Về giao ruộng khoán: Hợp tác xã An Nông 2: giao 230 ha cho từng đội sản xuất tiến hành giao khoán, hợp tác xã trích ra 80% diện tích giao khoán 15 năm, 10% dự trữ đấu thầu hàng năm, 10% diện tích ô, đầm, khó sản xuất đấu thầu 3 năm, 6 vụ. Gia đình chính sách giải quyết 30 đến 60 kg/vụ. Cán bộ xã cấp 2 sào ruộng khoán, chỉ nộp thuế.

Hợp tác xã Bắc Sơn: diện tích 226 ha được khoán theo khả năng lao động, không chia bình quân, dẫn đến tình trạng nông dân không nhận ruộng xấu (33 ha diện tích ô, đầm).

Hợp tác xã Bắc Hà: diện tích 169 ha do các đội giao khoán trên cơ sở các hộ gia đình xã viên đăng ký theo khả năng lao động, khoán 15 năm. Diện tích liền vùng, liền khoảnh dùng hình thức bốc thăm. Gia đình chính sách, cán bộ xã được giao từ 1 đến 1,5 sào nộp thuế.

Hợp tác xã Nam Hà: diện tích 146 ha giao cho đội khoán về từng hộ theo đăng ký. Đội điều chỉnh thừa, thiếu theo hình thức bớt theo tỷ lệ (nếu thiếu), khuyến khích các hộ nhận thêm (nếu thừa), bằng cách bốc thăm. Hộ cao nhất là 1 mẫu 8 sào. Hộ thấp nhất 3 sào. Gia đình chính sách, cán bộ xã cho nhận ruộng ưu tiên gần và tốt (3 sào), nộp thuế.

Hợp tác xã Trung Hà: diện tích 188 ha, các đội căn cứ mức đăng ký của xã viên, điều chỉnh, phân chia thành các suất tương đối đều, sau đó tổ chức bốc thăm. Hộ cao nhất được giao 4 mẫu. Hộ thấp nhất 5 sào diện tích gieo trồng cả năm. Các hộ gia đình chính sách, cán bộ xã được nhận 1 đến 1,5 sào tùy theo sản lượng cao thấp để nộp thuế.

Hợp tác xã Tiến Lực: 179 ha giao cho các đội khoán về các hộ gia đình. 44,5 ha năng suất thấp, không bảo đảm đơn giá dành cho xã viên nộp thuế. 34,45 ha ruộng ô đầm sản xuất khó khăn, đem đấu thầu.

Về việc định sản lượng giao khoán: Mỗi hợp tác xã định sản lượng theo phương pháp riêng, trên cơ sở nhất trí của nông dân. Cụ thể như sau:

Hợp tác xã An Nông 2 căn cứ sản lượng ổn định từ năm 1987 đến 1988, giao tiếp đến năm 1993.

Ở Bắc Sơn, cán bộ cốt cán và đảng viên đề nghị mức khoán theo năng suất tự nhiên 13tạ/ha, không đồng ý định sản lượng bằng cách lấy bình quân sản lượng của 10 năm (16 tạ/ha) theo đề xuất của ban quản lý. Cuối cùng mức khoán được ấn định là 19,5 tạ/ha (lấy mức 16 tạ/ha cộng thêm đầu tư chi phí).

Hợp tác xã Nam Hà thành lập hội đồng lão nông, cán bộ cốt cán, đội trưởng, đội phó các đội, đi thực địa nắm tình hình cụ thể của các đội, lấy bình quân năng  suất 10 năm (trừ năm mất mùa nặng), giao khoán cho xã viên.

Hợp tác xã Trung Hà thành lập hội đồng định sản lượng dựa trên năng suất bình quân 8 năm (trừ năm mất mùa nặng), lên đơn giá theo từng hạng ruộng, xin ý kiến xã viên. Kế quả, mức khoán được giao là 17 tạ/ha.

Hợp tác xã Tiến Lực xây dựng sản lượng căn cứ năng suất bình quân từ năm 1984 đến năm 1988 (trừ một vụ mất mùa nặng, còn 7 vụ), giảm 10% sản lượng, đưa vào giao khoán 17 tạ/ha. Loại ruộng năng suất thấp, cho xã viên nộp thuế. Ruộng ô, đầm đưa ra đấu thầu.

Đoàn cũng kiểm tra đơn giá khoán từng vụ của các hợp tác xã, phát hiện một số vấn đề chưa hợp lý về chi phí đầu tư, trả công cho cán bộ quản lý hợp tác... cần được điều chỉnh để Nghị quyết 10 thực sự đi vào cuộc sống, kích thích nông dân phát triển sản xuất làm ra nhiều sản phẩm hàng hóa.

Kết quả kiểm tra là cơ sở để Hội Liên hiệp nông dân tập thể đề xuất với tỉnh tăng cường chỉ đạo công tác khoán trong nông nghiệp, đồng thời có căn cứ yêu cầu các cấp Hội ở cơ sở bám sát thực tiễn, vận động hội viên thực hiện tốt những chủ trương mới và kịp thời tham gia uốn nắn những lệch lạc nảy sinh trong quá trình thực hiện.

Về cơ bản, thực tế sản xuất ở nông thôn sau khi triển khai Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị cho thấy quan hệ sản xuất vẫn giữ vững, nhiều nơi được tăng cường và củng cố. Năng lực sản xuất tăng lên. Lợi ích kinh tế rõ ràng hơn, khuyến khích người nhận khoán tích cực sản xuất, nâng cao trách nhiệm; tính dân chủ trong cơ chế khoán cao hơn. Số nợ khê đọng giảm hơn trước.

Kết quả này đã được đánh giá cụ thể trong Nghị quyết Hội nghị Tỉnh ủy lần thứ 7 ngày 11-8-1988: “thực hiện khoán mới đã phát huy năng lực sản xuất trong nhiều hợp tác xã nông nghiệp ở đồng bằng, một số chủ trương về định canh, định cư ở miền núi, một số chính sách nhằm huy động các năng lực sản xuất ở vùng biển được triển khai thực hiện. Dân chủ hóa, công khai hóa trong nội bộ các đoàn thể quần chúng, cơ quan... hợp tác xã đã góp phần nâng cao ý thức làm chủ tập thể của nhân dân, ngăn ngừa các hành vi phạm pháp, tiêu cực”.

Tuy vậy, trên thực tế, lĩnh vực nông nghiệp cũng còn nhiều khó khăn. Tình hình lương thực bị mất cân đối nghiêm trọng. Dự trữ trong dân ít. Hội nghị Tỉnh ủy lần thứ 7 đã chỉ ra những vấn đề cần tập trung chỉ đạo là: “Trước hết phải tính toán cân đối lương thực ở từng hộ gia đình, từng hợp tác xã, từng xí nghiệp; phải bám sát chỉ đạo tốt khâu sản xuất để nhân dân có cái ăn, Nhà nước thu mua được lương thực. Phải tích cực chăm bón, bảo vệ thu hoạch tốt vụ 8, vụ 10, thường xuyên kiểm tra đồng ruộng để dập tắt sâu bệnh; ra sức phòng chống bão lụt, bám sát đồng ruộng để chỉ đạo kịp thời.

Sơ kết rút kinh nghiệm việc khoán mới và hoạt động của bộ máy hợp tác xã; chăm lo xây dựng hệ thống dịch vụ nông nghiệp phù hợp với khoán mới đến từng hộ gia đình, từng đội sản xuất và các chính sách xã hội trong khoán mới... Coi trọng tập huấn để mở rộng diện khoán mới theo Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị”.

Tiếp cận nhanh với những chủ trương của Đảng, hoạt động của Hội nông dân đã có nhiều khởi sắc. Thành công của Đại hội đại biểu Hội Liên hiệp nông dân tập thể Việt Nam lần thứ nhất (từ 28-3 đến 29-3-1988) với việc khẳng định vai trò vị thế của tổ chức Hội từ Trung ương đến địa phương đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các cấp Hội.

Căn cứ nghị quyết của Đảng, các cấp Hội nông dân tăng cường công tác vận động nông dân phát triển kinh tế hộ gia đình, xây dựng các mô hình làm kinh tế giỏi ở các vùng nông thôn trong tỉnh.

Thực hiện chủ trương đổi tên tổ chức Hội được thông qua tại Đại hội đại biểu Hội Nông dân tập thể Việt Nam lần thứ nhất, ngày 20-11-1988, tỉnh Hội ban hành thông báo thay đổi con dấu cũ có dòng chữ Hội Liên hiệp nông dân tập thể Việt Nam sang con dấu mới với dòng chữ Hội Nông dân Việt Nam, chính thức đổi thành Hội Nông dân Việt Nam tỉnh Bình Trị Thiên từ ngày 25-11-1988.

Với tên gọi mới, Hội Nông dân Việt Nam đã khẩn trương triển khai nghị quyết đại hội, chỉ đạo các tỉnh Hội thực hiện nhưng chủ trương mới của Đảng và của Trung ương Hội.

Thực hiện Chỉ thị 05-CT/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về việc  “tiến tới tự lo, tự quản kinh phí hoạt động của Hội”, ngày 2-1-1989, Thường trực Hội Nông dân Việt Nam tỉnh hướng dẫn việc tổ chức sản xuất kinh doanh của các cấp huyện, thành, thị và cơ sở. Nội dung kế hoạch nêu rõ mục đích tổ chức sản xuất kinh doanh từ nông, lâm, hải sản, tạo ra sản phẩm làm gia công chế biến, nhằm tăng giá trị và giá trị sử dụng của sản phẩm; từ đó, có được nguồn chi cho hoạt động Hội. Các địa phương khai thác thế mạnh của mình về nguyên liệu, lao động, thị trường tiêu thụ, nghề truyền thống, góp phần tạo ra sản phẩm hàng hoá cho tiêu dùng, xuất khẩu, tăng nguồn tích luỹ, tái sản xuất mở rộng, góp phần thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn của Đảng bộ đề ra. Việc tổ chức sản xuất kinh doanh phải tự hạch toán, đảm bảo có lãi.

Nội dung kế hoạch còn đề cập những thuận lợi, khó khăn, phương hướng, nội dung, nguồn vốn sản xuất kinh doanh, bộ máy quản lý, lao động, thủ tục đăng ký kinh doanh, công tác tuyển chọn đào tạo công nhân và công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền. Các cấp Hội cử một đồng chí phụ trách sản xuất kinh doanh, vừa làm vừa rút kinh nghiệm.

Đây là một giải pháp mới nhằm góp phần tháo gỡ khó khăn về kinh phí hoạt động của tổ chức Hội các cấp. Tuy vậy, trên thực tế, việc triển khai gặp không ít khó khăn.

Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, đặc biệt là sau Đại hội Hội Nông dân Việt Nam lần thứ nhất, với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật và phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, hoạt động của tổ chức Hội có bước chuyển biến căn bản, cởi mở và năng động hơn.

Ngày 22-2-1989, Đảng đoàn Hội Nông dân tỉnh đã tổ chức hội nghị mở rộng tham gia ý kiến vào dự thảo báo cáo của Ban Bí thư Trung ương Đảng về sơ kết 2 năm thực hiện nghị quyết Đại hội VI và phương hướng nhiệm vụ 3 năm tới của Đảng.

Trong Báo cáo số 68/BC-ND của Đảng đoàn hội Nông dân tỉnh gửi Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, một số nội dung đã được các đại biểu thẳng thắn đề cập như: “Đảng lãnh đạo toàn diện nhưng phải có một cơ chế để kiểm tra sự lãnh đạo đó. Nếu không có một cơ chế kiểm tra sự lãnh đạo thì sẽ dấn đến Đảng quan liêu, bao biện, chuyên quyền, độc đoán. Từ trước đến nay, qua các vụ kỷ luật cán bộ, đảng viên, xuất phát từ sự phanh phui của thư tố giác, từ sự phản ánh của quần chúng, chưa có vụ nào xuất phát từ trong nội bộ Đảng. Vì vậy, cần có cơ chế để quần chúng kiểm tra đường lối chủ trương của Đảng, kiểm tra sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng và từng đảng viên đối với toàn xã hội. Trong sản xuất kinh doanh tuy có phát triển một bước nhưng xu hướng chung đang chạy theo kinh doanh ăn chênh lệch giá. Đảng và Nhà nước cần có chính sách lớn khuyến khích sản xuất, để có những sản phẩm xã hội và phát huy tài năng trong lao động sản xuất. Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị đã mở ra một bước trong sản xuất nông nghiệp, nhưng cơ cấu đầu tư chưa thật đúng mức... Cơ chế “lấy dân làm gốc” chưa thực sự đi vào thực tiễn. Đề nghị Trung ương cần chăm lo các đoàn thể quần chúng cách mạng... làm rõ sự khác nhau giữa các tổ chức quần chúng mang tính chất chính trị xã hội với các hội đoàn mang tính chất xã hội cứu tế, nhân đạo. Đề nghị Trung ương cần xem xét lại quy mô tỉnh và quy mô huyện phù hợp với khả năng và yêu cầu lãnh đạo, chỉ đạo trên địa bàn. Quy chế các đoàn thể quần chúng và nhân dân, thông qua đoàn thể của mình mà kiểm tra giám sát sự lãnh đạo của Đảng và sự thực hiện của Nhà nước, phải được hình thành một cơ chế và phải được đề cao. Nếu không được một cơ chế thì quyền làm chủ của nhân dân không được phát huy”.

Năm 1989, phong trào đấu tranh chống tiêu cực, thực hiện dân chủ, công bằng ở nông thôn, bảo vệ lợi ích chính đáng của người nông dân trên các mặt kinh tế, chính trị được đẩy mạnh. Nhờ cách làm ăn mới với nhiều ngành nghề được mở ra, thu nhập của người nông dân ngày càng tăng. Bộ mặt nông thôn có nhiều thay đổi.

Ở hợp tác xã Thủy Dương, năm 1989 cơ cấu tỷ lệ hộ tham gia các lĩnh vực sản xuất và dịch vụ như sau: nông nghiệp 67%, buôn bán 15%, tiểu thủ công nghiệp 6,3%, còn lại là các dịch vụ khác. Doanh thu các hoạt động dịch vụ tăng từ 1,2 triệu đồng (1981) lên 560 triệu đồng (1989). Tỷ lệ nhà ngói tăng từ 65% (1981) lên 90% (1989) [41].

Năm 1989, Nghị quyết 10 thực sự đi vào cuộc sống. Khắp các vùng quê trong tỉnh, ở đâu cũng thấy không khí thi đua sản xuất sôi nổi, khẩn trương. Phong trào thi đua sản xuất ở Bình Trị Thiên cũng như cả nước đã mạng lại những thành quả tốt đẹp trong nông nghiệp và xuất khẩu. Năm 1988 cả nước còn nhập khẩu 45 vạn tấn gạo nhưng đến năm 1989, với sản lượng 21,5 triệu tấn, Việt Nam không những đáp ứng được nhu cầu lương thực trong nước mà còn có gạo để xuất khẩu.

Từ năm 1976 đến tháng 6-1989, trong tỉnh Bình Trị Thiên hợp nhất, phong trào nông dân và hoạt động của Hội Liên hiệp nông dân tập thể ở các huyện thuộc Thừa Thiên Huế đã có bước chuyển biến mới. Đặc biệt, sau khi có Chỉ thị 100 của Ban Bí thư (13-1-1981) và Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị (5-4-1988) về chế độ khoán trong nông nghiệp, giai cấp nông dân phấn khởi đón nhận những chủ trương đổi mới trong nông nghiệp. Bằng nỗ lực lớn của nông dân khắp mọi miền trong tỉnh, từ một nền nông nghiệp độc canh, lạc hậu, năng suất thấp trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp với hình thức sở hữu đơn điệu, qua các phong trào sôi nổi trong nông thôn, đã có một nền nông nghiệp phát triển tương đối toàn diện, năng suất ngày càng tăng, đời sống nông dân được cải thiện. Bộ mặt nông thôn tuy còn khó khăn nhưng đã có nhiều đổi mới.

Về hoạt động của tổ chức Hội, qua ba lần tổ chức đại hội đại biểu từ cơ sở đến cấp tỉnh, tổ chức Hội ngày càng được quan tâm hơn, vai trò, vị thế của Hội ngày càng vững chắc. Hội đã tổ chức nhiều phong trào thi đua trong sản xuất nông nghiệp, dịch vụ, tham gia củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; xây dựng đời sống văn hóa ở nông thôn, thực hiện các chính sách xã hội, an ninh quốc phòng.

Mặc dù có tác động của những quan điểm khác nhau về đánh giá nông dân và vai trò của Hội của nông dân trong giai đoạn mới của cách mạng, nhưng với quan điểm đúng đắn của Thường vụ Tỉnh ủy và các cấp ủy Đảng, tổ chức Hội từ tỉnh đến cơ sở đã phát huy tác dụng tích cực trong việc vận động nông dân thực hiện đường lối chủ trương chính sách của Đảng, hăng hái tham gia các phong trào hành động cách mạng ở nông thôn; khẳng định vai trò là thành viên tích cực của Mặt trận và cầu nối quan trọng giữa Đảng với đồng đảo nông dân.

Để phù hợp với quy mô quản lý và có điều kiện phát huy nội lực của các địa phương, đáp ứng đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới, phiên họp Tỉnh ủy bất thường ngày 7-4-1989 đã nhất trí kiến nghị với Trung ương cho tổ chức lại tỉnh Bình Trị Thiên thành 3 tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế.

Trên cơ sở ý kiến đề nghị của các địa phương và nhân dân, Hội đồng nhân dân tỉnh khóa III, kỳ họp thứ 16 từ ngày 8 đến ngày 9-4-1989 đã thông qua nghị quyết đề nghị Quốc hội phân chia lại địa giới hành chính tỉnh Bình Trị Thiên thành 3 tỉnh.

Ngày 8-5-1989, Bộ Chính trị ban hành Quyết định số 87-QĐ/TW, chia tỉnh Bình Trị Thiên thành 3 tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế. Theo đó, Bộ Chính trị “giao Ban Bí thư và Thường vụ Hội đồng Bộ trưởng làm các thủ tục đề nghị Hội đồng Nhà nước trình Quốc hội cho chia tỉnh Bình Trị Thiên thành 3 tỉnh”.

Ngày 30-6-1989, Quốc hội khóa VIII, kỳ họp thứ V thông qua nghị quyết về việc phân chia địa giới hành chính tỉnh Bình Trị Thiên thành 3 tỉnh. Tỉnh Thừa Thiên Huế có 5 đơn vị hành chính gồm thành phố Huế và 4 huyện Hương Phú, Hương Điền, Phú Lộc và A Lưới.

Từ ngày 1-7-1989, bộ máy Đảng, chính quyền, lực lượng vũ trang, đoàn thể chính trị xã hội cấp tỉnh bắt đầu hoạt động theo đơn vị hành chính mới. Ban Chấp hành Hội Nông dân Thừa Thiên Huế được thành lập, tách ra từ Hội Nông dân Bình Trị Thiên. Bộ máy tổ chức Hội cấp huyện, thành phố cơ bản được ổn định, tiếp tục công tác vận động nông dân thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh mới tái lập.



[1] Thường vụ Tỉnh ủy Thừa Thiên, Chỉ thị số 70/CT về “Kế hoạch ra sức khôi phục và phát triển nông nghiệp”.

[2] Ban Chấp hành Tỉnh Hội Nông dân giải phóng Thừa Thiên, Báo cáo tháng 5-1975, ngày 28-5-1975.

[3] Ngô Kha (chủ biên). Lịch sử Đảng bộ Thừa Thiên Huế, tập III (1975-2000). Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr 30-31.

[4] Ban Chấp hành Tỉnh Đảng bộ Thừa Thiên, Nghị quyết Hội nghị toàn thể về tình hình và nhiệm vụ mới, ngày 29-6-1975.

[5] Ban Chấp hành Tỉnh Đảng bộ Thừa Thiên, Nghị quyết Hội nghị toàn thể… Tlđd.

[6] Tỉnh ủy Thừa Thiên, Báo cáo của Thường vụ trong Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Tỉnh Đảng bộ tháng 1-76.

 

[7] Chỉ thị về việc tổ chức lễ kỷ niệm Cách mạng tháng Tám và 30 năm ngày thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của Ban Chấp hành Tỉnh Hội Nông dân giải phóng Thừa Thiên, ngày 11-8-1975.

[8] Ban Chấp hành Tỉnh Hội Nông dân giải phóng Thừa Thiên, Báo cáo tình hình tháng 6-1975, ngày 25-6-1975.

[9] Ban Chấp hành Tỉnh Đảng bộ Thừa Thiên, Chỉ thị số 436/CT, ngày 20-10-1975 về việc “Phát huy kết quả bước đầu, tiếp tục phòng chống bão lụt, nhanh chóng khắc phục hậu quả do trận lụt vừa gây ra”.

[10] Báo cáo của Thường vụ Tỉnh ủy Thừa Thiên trong hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Tỉnh Đảng bộ tháng 1-76, số 37 về “Tình hình và nhiệm vụ”.

[11] Ty Nông Lâm Thừa Thiên, Báo cáo sơ kết vụ Đông Xuân 1975-1976 – phần nông nghiệp, ngày 27-2-1976.

[12] Tỉnh ủy Thừa Thiên, Báo cáo tại cuộc họp Tỉnh ủy ngày 30-3-1976: “Phát huy thắng lợi vẻ vang trong các thời kỳ đấu tranh cách mạng, Đảng bộ ta quyết lãnh đạo nhân dân Thừa Thiên Huế hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, góp phần đắc lực vào việc xây dựng tỉnh Bình Trị Thiên giàu đẹp”.

[13] Ngô Kha (chủ biên). Lịch sử Đảng bộ Thừa Thiên Huế, tập III. Sđd, tr 62.

[14] Ban Chấp hành Tỉnh Đảng bộ Bình Trị Thiên, Thông báo về việc tiến hành hợp nhất các tổ chức Hội Nông dân tỉnh Bình Trị Thiên, ngày 24-5-1976.

[15] Ban Chấp hành Tỉnh Đảng bộ Bình Trị Thiên, Quyết định số 14 về tổ chức biên chế của Hội Nông dân tỉnh, ngày 28-6-1976.

[16] Ngô Kha (chủ biên), Lịch sử Đảng bộ Thừa Thiên Huế, tập III. Sđd, tr 65.

[17] Ngô Kha (chủ biên), Lịch sử Đảng bộ Thừa Thiên Huế, tập III. Sđd, tr 71-74.

[18] Ban Chấp hành Tỉnh Đảng bộ Bình Trị Thiên, Quyết định số 453 về việc thống nhất Hội Nông dân tập thể tỉnh và Ban Nông nghiệp Tỉnh ủy, ngày 17-10-1977.

[19] Ban Bí thư, Chỉ thị số 24-CT/TW, ngày 12-12-1977 “Về việc tăng cường công tác Nông hội ở các tỉnh miền Nam”.

[20] Tỉnh ủy Bình Trị Thiên, Đề cương số 8 về việc kết luận Hội nghị Tỉnh ủy về nông nghiệp, ngày 23-7-1977.

[21] Dự thảo báo cáo tại Hội nghị phát động Đông Xuân toàn tỉnh ngày 17-10-1977 “về việc quán triệt Nghị quyết II của Trung ương Đảng và Nghị quyết III của Tỉnh ủy về nông nghiệp, phát huy kết quả vụ Đông Xuân vừa qua, phấn đấu thực hiện các mục tiêu nông nghiệp năm 1977, tiến lên giành thắng lợi toàn diện, vượt bậc nhiệm vụ phát triển nông nghiệp năm 1978, mở đầu là vụ sản xuất Đông Xuân sắp tới”, ngày 15-10-1977.

[22] Báo cáo công tác tháng 7-1977, số 10BC/TU, ngày 3-8-1977 của Tỉnh ủy Bình Trị Thiên và Báo cáo tình hình sản xuất và công tác tháng 8-1977, số 14BC/TU, ngày 8-9-1977 của Tỉnh ủy Bình Trị Thiên.

[23] Tỉnh ủy Bình Trị Thiên, Báo cáo tình hình 3 tháng 7, 8, 9-1977, số 16BC/TU, ngày 10-10-1977.

[24] Tỉnh ủy Bình Trị Thiên, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 về nhiệm vụ kinh tế năm 1978, số 01-NQ/TU, ngày 16-1-1978.

[25] Đại hội đại biểu nông dân tập thể và những đơn vị, cá nhân sản xuất nông nghiệp giỏi tỉnh Bình Trị Thiên lần thứ nhất. Hội Nông dân tập thể và Ty Văn hóa thông tin Bình Trị Thiên ấn hành, tháng 6-1978, tr 9.

[26] Báo cáo công tác tháng 2-1978, số 03BC/TU, ngày 13-3-1978 của Tỉnh ủy Bình Trị Thiên và Báo cáo tình hình 6 tháng đầu năm 1978, số 08BC/TU, ngày 7-7-1978 của Tỉnh ủy Bình Trị Thiên.

[27] Nghị quyết của Thường vụ Tỉnh ủy về việc tập trung chỉ đạo thực hiện Nghị quyết số 12 của Bộ Chính trị về chính sách lương thực trước mắt và tiến hành ngay việc cân đối lương thực trên bàn huyện trong năm 1979, số 2 NQ/TU, ngày 6-2-1979.

[28] Trịnh Nhu (chủ biên), Lịch sử phong trào nông dân và Hội Nông dân Việt Nam (1930-1995). Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr 443.

[29] Trịnh Nhu (chủ biên), Lịch sử phong trào nông dân… Sđd, tr 444-445.

[30] Thường vụ Tỉnh ủy Bình Trị Thiên, Nghị quyết về “Một số chủ trương, biện pháp về công tác lương thực nhằm thực hiện Nghị quyết số 25 của Bộ Chính trị”, số 4/NQ-TU, ngày 18-5-1980.

[31] Hội Liên hiệp Nông dân tập thể tỉnh Bình Trị Thiên, Báo cáo tình hình hoạt động 9 tháng đầu năm 1980, ngày 18-9-1980.

[32] Đảng đoàn Nông vận tỉnh Bình Trị Thiên, Báo cáo ngày 3-7-1980 của Bí thư Đảng đoàn Nông vận tỉnh Bình Trị Thiên gửi Thường vụ Tỉnh ủy.

[33] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, T 41, tr 27.

[34] Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006). Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr 41.

2. Ngô Kha (chủ biên), Lịch sử Đảng bộ Thừa Thiên Huế, T III, Nxb CTQG, HN, 2000, tr 93.

[35] Tỉnh ủy Bình Trị Thiên, Báo cáo tình hình thực hiện chỉ thị 100-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng và Nghị quyết 02 của Thường vụ Tỉnh ủy trong Đông Xuân 1980 - 1981.

2 Ngô Kha (chủ biên), Lịch sử Đảng bộ Thừa Thiên Huế, Tập III. Nxb CTQG, HN, 2000, tr 98.

 

[37] Ban Chấp hành Hội Liên hiệp nông dân tập thể Bình Trị Thiên, Báo cáo tình hình và nhiệm vụ trình bày tại đại hội đại biểu Hội Liên hiệp nông dân tập thể Bình Trị Thiên lần thứ hai, tháng 4 -1984, tr 6.

[38] Ban Chấp hành Hội Liên hiệp nông dân tập thể Bình Trị Thiên, Báo cáo tình hình và nhiệm vụ trình bày tại Đại hội đại biểu Hội Liên hiệp nông dân tập thể tỉnh Bình Trị Thiên lần thứ hai, 4-1984, tr 42-43.

[39] Thủy Dương - một Đảng bộ trong sạch vững mạnh. Nxb Thuận Hóa, Huế, 1994, tr 9.

[40] Báo cáo trình bày tại Đại hội đại biểu Hội Nông dân tập thể tỉnh lần thứ III, tr 16.

[41] Thủy Dương - một Đảng bộ trong sạch vững mạnh. Nxb Thuận Hóa, Huế, 1994, tr 46.

Các tin khác
Xem tin theo ngày  
Thống kê truy cập
Truy cập tổng 5.793.067
Truy cập hiện tại 269