Tìm kiếm tin tức
Liên kết website
Tỉnh ủy, UBND tỉnh
Sở, ban, ngành
UBND huyện, thị xã
Hội Nông dân Việt Nam
CHƯƠNG II
Ngày cập nhật 30/06/2009

NÔNG DÂN VÀ HỘI NÔNG DÂN THỪA THIÊN HUẾ TRONG CUỘC ĐẤU TRANH

GIÀNH CHÍNH QUYỀN

1930 - 1945

 

I. NÔNG DÂN THỪA THIÊN HUẾ TRONG PHONG TRÀO CÁCH MẠNG 1930 - 1931 VÀ NHỮNG NĂM 1932 - 1935

Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 - 1933 của chủ nghĩa tư bản đã tác động nặng nề đến nền kinh tế các nước thuộc địa. Nền kinh tế Việt Nam vốn phụ thuộc nền kinh tế Pháp, phải gánh chịu thêm hậu quả khủng hoảng nên càng suy sụp hơn. Lúa gạo là sản phẩm chính của nông nghiệp bị sụt giá mạnh. Ruộng đất bị bỏ hoang ngày càng nhiều. Nông dân phải chịu sưu cao, thuế nặng và nạn cho vay nặng lãi. “Một suất sưu năm 1929 bằng giá 50kg gạo, thì năm 1932 là 100kg” [1]. Nhiều thứ thuế vô lý được áp đặt và tăng thêm. Nhiều loại công trái được phát hành nhằm bòn rút tiền của ít ỏi của người dân.

Trong bối cảnh đó, đời sống các tầng lớp nhân dân lao động, nhất là nông dân ở Thừa Thiên cũng lâm vào tình cảnh khó khăn, thiếu thốn. Mâu thuẫn giữa nhân dân ta với thực dân Pháp ngày càng gay gắt, là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến các cuộc đấu tranh cách mạng sôi nổi trong cả nước.

Với sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào ngày 3-2-1930, nhân dân Việt Nam, trong đó đại đa số là nông dân đã có một tổ chức tiên phong lãnh đạo, dẫn dắt phong trào phát triển theo một phương hướng mới.

Cương lĩnh chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam được Hội nghị thành lập Đảng thông qua chỉ ra những nhiệm vụ và mục tiêu cụ thể của cách mạng liên quan đến nông dân như: “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến... dựng ra Chính phủ công nông binh... Thâu hết ruộng đất của đế quốc chủ nghĩa làm của công chia cho dân cày nghèo” [2]. Cương lĩnh khẳng định nông dân là lực lượng cơ bản của cách mạng: “Đảng phải thu phục cho được đại bộ phận dân cày và phải dựa vào hạng dân cày nghèo làm thổ địa cách mạng đánh trúc bọn đại địa chủ và phong kiến” [3].

Đường lối cách mạng của Đảng phù hợp với nguyện vọng thiết tha của nhân dân nên đã tập hợp được đông đảo quần chúng, trong đó đa số là nông dân trong cuộc đấu tranh vì mục tiêu chung của dân tộc.

Tại tỉnh Thừa Thiên đầu năm 1930, các tổ chức cộng sản được thành lập. Đông Dương Cộng sản Đảng hình thành các chi bộ trong một số nhà máy, trường học ở thành phố Huế. Đông Dương Cộng sản liên đoàn sau khi thành lập cũng xây dựng tổ chức trong nhiều cơ sở ở thành phố Huế và vùng nông thôn các huyện.

Tháng 1-1930, tại làng Bàn Môn (Lộc An, Phú Lộc), chi bộ ghép Phú Vang - Phú Lộc được thành lập gồm các đảng viên: Đỗ Tram, Trương Luyện (Phú Vang), Lê Bá Dị, Lê Trọng Uẩn, Lê Trọng Ngạc, Đoàn Thông, Lê Bút Đoàn, Bùi Pha, Nguyễn Liễn (Phú Lộc), do đồng chí Lê Bá Dị làm Bí thư. Đây là chi bộ đầu tiên ở vùng nông thôn Thừa Thiên. Hoạt động của chi bộ đã thúc đẩy phong trào nông dân các huyện phía nam của tỉnh phát triển mạnh.

Tháng 4-1930, tổ chức Đông Dương Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản liên đoàn tiến hành hội nghị hợp nhất, thành lập Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam tỉnh Thừa Thiên do Lê Viết Lượng làm Bí thư. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nông dân Thừa Thiên từng bước trưởng thành, ngày càng khẳng định vai trò quan trọng của mình trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.

Tại phiên họp đầu tiên, các Ủy viên Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh được phân công nhiệm vụ cụ thể. Đồng chí Lê Bá Dị trực tiếp phụ trách công tác Dân vận ở ba huyện phía nam là Phú Lộc, Phú Vang và Hương Thủy. Về phương hướng công tác liên quan đến phong trào nông dân, hội nghị đề ra nhiệm vụ phải tuyên truyền về Đảng, vận động, giác ngộ và phát động nông dân đấu tranh đòi những quyền lợi thiết thân hàng ngày, tham gia các hoạt động tổ chức kỷ niệm ngày Quốc tế lao động 1-5 từ ngày 22-4 đến ngày 7-5-1930.

Với vai trò nòng cốt của đảng viên ở nông thôn, cuộc đấu tranh của nông dân chống cường hào, địa chủ, chống chủ tư bản chiếm đất được đẩy mạnh. Phong trào diễn ra mạnh mẽ ở các huyện Phong Điền, Phú Lộc.

Ở Phong Điền có cuộc đấu tranh của nông dân chống hãng dầu tràm của Pháp chiếm vùng đồi núi của tổng Phù Ninh. Cuối năm 1931, hãng F.I.A của thực dân Pháp đến xây dựng một xưởng dầu tràm ở Hiền Sĩ. Một số hương lý của 9 xã trong vùng nguyên liệu tràm bị mua chuộc đã ký giấy nhượng đất. Do nguồn lợi sinh sống bị mất, được sự hậu thuẫn của nhóm Thanh niên Sông Bồ, nông dân đã kéo đến các cơ quan cai trị cấp huyện, tỉnh để đấu tranh giành lại nguồn sống của mình. Sau hai năm, cuộc đấu tranh đã giành thắng lợi.

Bằng các hình thức làm đơn kiện có chữ ký của nhiều người, gửi đăng báo..., nông dân các làng Phù Ninh, Đông Dạ còn đấu tranh có hiệu quả chống cường hào chiếm ruộng đất công, chống quân cấp điền thổ không công bằng... Nhóm Thanh niên Sông Bồ còn tích cực đấu tranh chống các hủ tục, nhất là tệ mê tín dị đoan lan tràn trong địa phương.

Ở Phú Lộc, vụ đông xuân năm 1930 mất mùa khiến nông dân trong vùng đói khổ. Bọn địa chủ cường hào bắt nông dân đắp đập, khai hoang hai mẫu ruộng ở đầm Cầu Hai với tiền công rất rẻ mạt: 1lon gạo (tương đương 0,25 kg)/một ngày công. Để tổ chức cuộc đấu tranh, chi bộ Truồi đã cử hai đảng viên là Lê Trọng Ngạc và Lê Trọng Uẩn cùng tham gia lao động với bà con. Nắm được nguyện vọng của những người dân nghèo, các đồng chí đã khéo léo vận động nông dân kiên trì đấu tranh đòi tăng tiền công với hàng trăm nông dân tham gia. Bọn hào lý phải nhượng bộ, tăng giá trị ngày công lên 3 lon gạo/ngày. Thắng lợi của cuộc đấu tranh thể hiện vai trò của chi bộ Đảng, cổ vũ tinh thần của nông dân  trong vùng.

Thực hiện chủ trương của Đảng về tổ chức các hoạt động kỷ niệm ngày Quốc tế lao động 1-5, bên cạnh hoạt động ở thành phố Huế, tại một số địa phương khác trong tỉnh, các tổ chức Đảng đã bí mật rải truyền đơn và treo cờ đỏ búa liềm như: Bao Vinh, Triều Sơn Trung, Thanh Lương (Hương Trà), Phước Tích, Ưu Điềm (Phong Điền), chợ Trường Hà, Dưỡng Mong, Hà Thanh, Thanh Lam, Viễn Trình (Phú Vang), Nam Phổ Cần, Xuân Lai, Mỹ Lợi (Phú Lộc). Truyền đơn kêu gọi nông dân đấu tranh đòi cải thiện đời sống, phản đối chủ nghĩa đế quốc, ủng hộ Liên bang Xô Viết, đã ảnh hưởng tích cực đến tư tưởng quần chúng lao động, thức tỉnh họ đấu tranh chống cường quyền.

Sau đợt hoạt động nhân kỷ niệm ngày Quốc tế lao động 1-5, tổ chức Đảng, quần chúng ở cơ sở phát triển mạnh. Nhiều chi bộ được thành lập. Trên cơ sở đó, Tỉnh ủy chủ trương thành lập các ban vận động: Ban vận động thành lập Nông hội gồm Lê Bá Dị, Đỗ Tram, đồng chí Thông. Ban vận động Phản đế, Cứu tế gồm Hải Triều, Võ Liêm Sơn, Lâm Mậu. Ban vận động phụ nữ là các chị Lụt, Nụ và Xin. 

Tháng 6-1930, trên cơ sở những hoạt động bước đầu có hiệu quả của các ban vận động, Tỉnh ủy chủ trương thành lập Ban Dân vận và các đoàn thể quần chúng của phụ nữ, nông dân (Nông hội), thanh niên, học sinh (Sinh hội đỏ) cấp tỉnh và thị xã. Ở các vùng nông thôn, tổ chức Nông hội bắt đầu được xây dựng, tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh của nông dân chống cường hào áp bức, nhũng lạm. 

Trên phạm vi cả nước, phong trào cách mạng diễn ra sôi nổi, đỉnh cao là các cuộc đấu tranh của nhân dân Nghệ - Tĩnh. Từ tháng 9-1930 đến đầu năm 1931, chính quyền Xô viết được thành lập ở nhiều địa phương trong hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Tổ chức “Nông hội đỏ” ra đời và hoạt động tích cực.

Ở Thừa Thiên, hưởng ứng phong trào bảo vệ Xô viết Nghệ - Tĩnh do Đảng Cộng sản Việt Nam phát động, một đợt hoạt động cách mạng mới với những hình thức phong phú như mít tinh, diễn thuyết, rải truyền đơn, lễ truy điệu, lạc quyên... đã diễn ra sôi nổi ở nhiều địa phương trong tỉnh.

Cuối tháng 9-1930, nhiều cuộc mít tinh với sự tham gia của hàng ngàn nông dân ở Bàn Môn, Mỹ Lợi (Phú Lộc), Mộc Trụ, Trừng Hà (Phú Vang) nhằm tuyên truyền về Nghệ - Tĩnh đỏ, đồng thời tố cáo tội ác của thực dân Pháp ném bom hủy diệt ở Hưng Nguyên và kêu gọi nhân dân ủng hộ đồng bào Nghệ - Tĩnh.

Đối với thực dân Pháp, chúng không chỉ đàn áp phong trào đấu tranh ở Nghệ - Tĩnh mà còn mở rộng khủng bố ra khắp các địa phương trong cả nước. Cuối năm 1930, đầu năm 1931, tại Thừa Thiên, nhiều cán bộ, đảng viên bị bắt, trong đó có Lê Viết Lượng (Bí thư Tỉnh ủy), Lê Bá Dị (Tỉnh ủy viên, phụ trách công tác dân vận). Các đồng chí cán bộ, đảng viên bị giam cầm trong các nhà lao Thừa Phủ, Hộ Thành và Sở Mật thám; sau đó, một số tiếp tục bị đày ở địa ngục trần gian Lao Bảo và Kon Tum.

Tại nhà lao Thừa Phủ, chi bộ Đảng được thành lập, lãnh đạo tù chính trị đấu tranh bằng nhiều hình thức, kể cả tuyệt thực, chống chế độ lao dịch nặng nề, đòi được đọc sách, báo, được người nhà vào thăm... Gia đình, bà con nông dân là người thân của các chiến sĩ cách mạng từ nhiều địa phương trong tỉnh cũng đấu tranh để được vào thăm nuôi; qua đó, hình thành một số cơ sở làm cầu nối liên lạc với bên ngoài nhà tù.

Do sự đàn áp khủng bố ráo riết của địch, các cuộc đấu tranh của nông dân dưới sự lãnh đạo của Đảng tạm thời lắng xuống.

Trong những năm 1930 - 1931, các cuộc đấu tranh của nông dân Thừa Thiên bên cạnh mục tiêu kinh tế đã hướng đến những mục tiêu chính trị có tính chất quốc gia (ủng hộ Xô viết Nghệ - Tĩnh) và quốc tế (kỷ niệm ngày Quốc tế lao động 1-5). Tuy diễn ra chưa thật sôi nổi và đều khắp trong toàn tỉnh nhưng các cuộc đấu tranh của nông dân đã góp phần quan trọng trong việc vận động và tập hợp quần chúng để chuẩn bị cho những cuộc đấu tranh tiếp theo.

Từ cuối năm 1931, do chính sách đàn áp, khủng bố ngày càng khốc liệt của thực dân Pháp, phong trào cách mạng tạm thời lắng xuống. Đến tháng 6-1932, Ban Lãnh đạo Trung ương của Đảng đưa ra Chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương, trong đó nhấn mạnh: “cần phải kiên cố những đoàn thể cách mạng quần chúng, nhất là Công hội đỏ, Nông hội… Khi lập ra các ban uỷ viên nông dân để tranh đấu chống việc bán đất của nông dân và chống sưu cao thuế nặng thì các đoàn thể cách mạng phải liên kết những điều yêu cầu khẩn yếu hằng ngày với những nhiệm vụ căn bản của cuộc cách mạng phản đế và điền địa” [4].

Trên cơ sở Chương trình hành động của Đảng, Chương trình hành động của Nông hội xác định cụ thể 10 điểm sau: chống các thứ xâu thuế; chống cướp ruộng; phản đối cho vay nặng lãi; thi hành luật ngày làm 8 giờ; cho nông dân vay vốn để cày cấy; chia thóc cho dân cày nghèo; đòi tự do hội họp, tự do ngôn luận, tự do bãi công, bãi thị; phản đối bắt bớ, giam cầm, đòi thả tù chính trị; đòi bỏ độc quyền rượu, muối... Chương trình hành động của Nông hội kêu gọi: Nông hội khắp trong cả nước phải đoàn kết đấu tranh để bênh vực quyền lợi của nông dân lao động, đó là con đường duy nhất đưa giai cấp nông dân làm cách mạng ruộng đất thành công.

Chương trình hành động của Đảng và Nông hội là định hướng đúng đắn và phù hợp để phong trào nông dân và tổ chức nông hội ở các địa phương hoạt động trong điều kiện phong trào đang gặp tổn thất lớn.

Từ năm 1932, một số đảng viên mãn hạn tù trở về địa phương tiếp tục bí mật vận động nông dân đấu tranh, gây dựng phong trào.

Ở Phú Lộc, các đảng viên vận động nông dân làng An Nông tố cáo âm mưu của địa chủ định đấu giá 35 mẫu ruộng, đấu tranh đòi chúng phải chia cho trai làng mới đủ 18 tuổi được hưởng suất đinh; đòi chia lại ruộng đất, đòi lính huyện không được bắt bớ những người tham gia đấu tranh.

Ở Phong Điền, tuy không tổ chức thành chi bộ nhưng các đảng viên vẫn bí mật hoạt động, tuyên truyền, vận động nông dân Mỹ Xuyên, Mỹ Cang, Phú Xuân và mở rộng ra các địa bàn Vĩnh An, Trạch Phổ, Phú Nông, Thanh Hương, Đại Lộc và Thế Chí. Nhiều nhóm thanh niên nông dân tiến bộ được hình thành.

Từ đầu năm 1933, nhóm “Thanh niên sông Bồ” là những nông dân trẻ, cùng chí hướng ở các làng Cổ Bi, Hiền Sỹ, Đông Dạ, Phù Ninh và Thượng An tập hợp lại. Nhóm đã tổ chức thành công những cuộc đấu tranh chống cường hào chiếm đoạt ruộng đất, chống quân cấp ruộng đất bất công và bài trừ mê tín dị đoan trong quần chúng.

II. NÔNG DÂN THỪA THIÊN HUẾ TRONG CUỘC VẬN ĐỘNG DÂN CHỦ 1936 - 1939

Tháng 7-1935, trong bối cảnh hòa bình thế giới bị đe dọa bởi chủ nghĩa phát xít, Quốc tế Cộng sản tổ chức Đại hội lần thứ VII vạch rõ nhiệm vụ của các Đảng Cộng sản là tập trung chống chủ nghĩa phát xít, thành lập Mặt trận Thống nhất của công nhân và quần chúng rộng rãi nhằm đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, bảo vệ hòa bình thế giới.

Năm 1936, Mặt trận Bình dân Pháp thành lập nội các mới do lãnh tụ Đảng Xã hội Léon Blum làm Thủ tướng. Léon Blum đã ban hành những quyết định quan trọng tác động đến tình hình nước ta: trả tự do cho tù chính trị, thành lập ủy ban điều tra tình hình thuộc địa và thi hành một số cải cách xã hội.

Trước tình hình mới, Đảng ta quyết định thay đổi sách lược đấu tranh, ngày 26-7-1936, Ban Chấp hành Trung ương Đảng tổ chức hội nghị tại Thượng Hải (Trung Quốc). Hội nghị nhận định: trước mắt cách mạng Đông Dương chưa thể trực tiếp đánh đổ đế quốc Pháp và làm cách mạng ruộng đất mà chỉ đấu tranh chống phát xít và chiến tranh đế quốc, chống bọn phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do dân chủ, cơm áo, hòa bình. Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc phản đế, thay đổi các hình thức tổ chức và đấu tranh phù hợp với tình hình và nhiệm vụ mới. Mặt trận dân tộc phản đế có nhiệm vụ đấu tranh đòi các quyền lợi chính trị, các quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do dùng tiếng mẹ đẻ, tự do học tập cho toàn thể nhân dân Đông Dương.

Tháng 8- 1936, Trung ương Đảng chủ trương “thành lập các tiểu ban trù bị triệu tập Đông Dương đại hội để thảo ra một bản dân nguyện gửi tới phái đoàn điều tra mà Quốc Hội Pháp sắp phái qua Đông Dương”, Đảng “sẵn sàng liên hiệp để hành động chung với hết thảy mọi người lao động, tiểu tư sản, trí thức, tư sản thuộc bất kỳ nòi giống, tôn giáo, giai cấp nào tán thành nguyên tắc triệu tập Đông Dương Đại hội theo những nguyên tắc dân chủ, muốn bảo vệ hòa bình và đòi các quyền tự do dân chủ, cơm áo cho quần chúng nhân dân” [5]. Chủ trương của Trung ương Đảng là định hướng quan trọng để các Đảng bộ căn cứ tình hình cụ thể, vận dụng phù hợp vào hoàn cảnh cụ thể của địa phương, lãnh đạo nông dân đấu tranh.

Tại Thừa Thiên vào đầu năm 1936, nhiều cán bộ, đảng viên từ các nhà tù Côn Đảo, Buôn Mê Thuột, Lao Bảo… lần lượt trở về hoạt động như Lê Duẩn (Bí thư Xứ ủy trung Kỳ năm 1937), Phan Đăng Lưu (Xứ ủy viên Xứ ủy Trung Kỳ, phụ trách các hoạt động công khai, báo chí và vận động trí thức), Nguyễn Chí Diểu (Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, được phân công về Huế chỉ đạo phong trào), Bùi San... Các đồng chí đã tiến hành gây dựng và phát triển cơ sở, triển khai thực hiện chủ trương mới của Đảng, hình thành hai bộ phận hoạt động theo hai hình thức công khai kết hợp nửa công khai và bí mật. 

Ở các vùng nông thôn trong tỉnh, một số đảng viên đã lợi dụng sự chuyển biến của tình hình sau thắng lợi của Mặt trận Bình dân Pháp, từng bước đứng ra hoạt động hợp pháp và nửa hợp pháp.

Trong toàn tỉnh đã hình thành các chi bộ hoặc các nhóm cộng sản kết hợp hoạt động bí mật với hoạt động công khai như: chi bộ nhà in Tiếng Dân và nhiều cơ sở Đảng ở chợ Đông Ba, các trường học ở thành phố Huế, chi bộ độc lập của huyện Phú Lộc, nhóm hoạt động bí mật và nhóm hoạt động công khai của huyện Phú Vang, nhóm Sông Bồ (Phong Điền), các nhóm Niêm Phò, Tây Thành (Quảng Điền), các nhóm Bao Vinh, Thanh Lương (Hương Trà). Nhóm Hương Thủy được tăng cường thêm một số đảng viên tiếp tục hoạt động, gây dựng cơ sở, phát triển phong trào.

Tổ chức Đảng ở Phú Lộc phát động nông dân đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ, tự do lập các hội ái hữu, nghề nghiệp, truyền bá chữ quốc ngữ. Đặc biệt, các đảng viên đã vận động được những nhân sĩ tiến bộ có chức sắc trong các địa phương như Bàn Môn, Mỹ Lợi thành lập Hội đồng dân ủy, tiến hành cải cách hương tục, bài trừ mê tín dị đoan, qua đó tuyên truyền đường lối của Mặt trận Dân chủ Đông Dương.

Hoạt động của tổ chức Đảng đã dẫn đến sự hình thành của hàng loạt tổ chức hội biến tướng như các hội: hiếu (đi đám), lợp nhà, đi săn, đi củi, vớt rong, đá bóng, cấy, gặt, đọc sách, giảng báo… nhằm tập hợp, vận động nông dân, hướng họ vào cuộc đấu tranh dân chủ.

Dưới sự lãnh đạo của các tổ chức Đảng, phong trào dân chủ nhanh chóng phát triển với những hình thức đấu tranh phong phú. Nông dân đã tham gia sôi nổi phong trào đấu tranh đòi triệu tập Đại hội Đông Dương, đòi quyền lợi dân sinh dân chủ và đón Godart đưa dân nguyện.

Nhân cơ hội Quốc hội Pháp quyết định cử phái đoàn sang điều tra tình hình Đông Dương, Đảng chủ trương vận động và tổ chức nhân dân họp bàn về các yêu cầu tự do, dân chủ, dân sinh, thảo ra các bản dân nguyện để gửi cho phái đoàn điều tra Pháp và tiến tới tổ chức Đại hội Đông Dương.

Hướng dẫn các hoạt động đấu tranh của quần chúng, Đảng nêu ra các yêu cầu về tự do dân chủ chủ yếu liên quan đến nông dân như: các quyền tự do về ngôn luận, hội họp, tổ chức và đi lại; bỏ thuế thân và giảm các thuế khác, bắt buộc học tiếng Việt tại các trường; nam nữ bình đẳng... Đảng kêu gọi thành lập các ủy ban hành động từ thành thị đến nông thôn để vận động quần chúng bầu cử đại biểu tham dự Đại hội Đông Dương.

Thực hiện chủ trương trên, ngày 24-8-1936, Nguyễn Chí Diểu và các cán bộ, đảng viên nòng cốt ở Huế đã tổ chức cuộc họp ở hiệu sách Hương Giang để bàn biện pháp tổ chức Đông Dương Đại hội tại Trung Kỳ. Ban trù bị có nhiệm vụ tuyên truyền, tổ chức, huy động quần chúng tham gia đại hội, thảo bản dân nguyện gửi tới phái đoàn điều tra của Quốc hội Pháp.

Nhằm ngăn chặn phong trào quần chúng, chính quyền thực dân và Nam triều tìm cách lái cuộc vận động vào con đường cải lương thông qua Viện Dân biểu Trung Kỳ. Khâm sứ Trung Kỳ Graffeuil và Chánh mật thám Sogny ra lệnh cho Lê Thanh Cảnh - Phó Viện trưởng Viện Dân biểu Trung Kỳ triệu tập một cuộc họp tại Viện Dân biểu, gồm những phần tử không ủng hộ Mặt trận Bình dân để dự thảo “dân nguyện” và mời 100 đại biểu dân chúng tham dự phát biểu nguyện vọng “cốt sao không hại cho Chính phủ mà có lợi cho quốc dân”.

Trước tình hình đó, Ủy ban trù bị Đông Dương Đại hội ở Huế quyết định đấu tranh công khai, biến diễn đàn Viện Dân biểu thành diễn đàn của ta. Các đảng viên cộng sản như Phan Đăng Lưu, Nguyễn Chí Diểu, Hải Triều... đã tích cực vận động các nghị viên và các nhà báo tiến bộ ủng hộ chủ trương của Đảng, tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân, đa số là nông dân về dự họp thật đông để biểu dương lực lượng.

Ngày 20-9-1936, Đại hội toàn kỳ được tổ chức tại trụ sở Viện Dân biểu ở Huế. Có khoảng 500 người, phần đông là nông dân đã được huy động tới địa điểm hội nghị làm hậu thuẫn cho lực lượng dân chủ, tiến bộ do các đảng viên cộng sản đại diện, đứng đầu là đồng chí Phan Đăng Lưu. Các đồng chí Hải Triều, Lâm Mộng Quang tham gia Đoàn Chủ tịch Đại hội. Trên diễn đàn Đại hội, các chiến sĩ cộng sản và đại biểu các giới phát biểu những nguyện vọng chính đáng của quần chúng lao động, nhất là nông dân, vạch mặt bọn tay sai trong Viện Dân biểu và tuyên truyền chủ trương của Đảng. Sau hai ngày làm việc do lực lượng tiến bộ làm chủ, Đại hội đi đến quyết định: yêu cầu chính quyền để quần chúng thành lập các “Ủy ban hành động” ở các địa phương. Các ủy ban này sẽ hoạt động công khai để thu thập “dân nguyện” và cử người đại diện của mình. Đại hội cử ra một Ủy ban lâm thời đại diện nhân dân tập hợp “dân nguyện”, vận động tiến tới đại hội toàn kỳ chính thức.

Kết quả đại hội làm cho chính quyền thực dân và Nam triều bị bất ngờ. Khâm sử Trung Kỳ lập tức tuyên bố bác bỏ mọi yêu cầu của Đại hội và ngay trong lúc Đại hội đang họp, ngày 21-9-1936, chính quyền thực dân đã trắng trợn ra lệnh cấm Đông Dương Đại hội của toàn xứ Trung Kỳ.

Mặc dù chính quyền thực dân cấm tổ chức Đông Dương Đại hội, nhưng phong trào đấu tranh đòi dân sinh dân chủ đã lan rộng ảnh hưởng trong quần chúng nhân dân. Nông dân đấu tranh đòi cứu tế nạn đói, nạn lụt, đòi giảm tô, giảm tức, cải cách hương thôn, đòi chia lại ruộng công, chống sưu cao, thuế nặng, phụ thu lạm bổ, chống nạn cướp ruộng đất.

Đầu năm 1937, Chính phủ Mặt trận Bình dân Pháp cử Justin Godart làm Đặc sứ sang điều tra tình hình Đông Dương. Lấy lý do hợp pháp là đón tiếp Godart, Đảng Cộng sản Đông Dương phát động phong trào đấu tranh công khai bằng hình thức biểu tình, đưa kiến nghị ở nhiều nơi trên cả nước với khẩu hiệu ân xá tù chính trị, bỏ thuế thân, tự do nghiệp đoàn và tự do ngôn luận.

Dưới sự chỉ đạo của Xứ ủy Trung Kỳ, các tổ chức cộng sản ở Thừa Thiên tích cực vận động quần chúng tham gia phong trào. Đồng chí Nguyễn Chí Diểu đã triệu tập đại biểu các giới trong tỉnh về họp ở trụ sở báo Nhành Lúa để thảo luận và bàn việc đón Godart đưa “dân nguyện”. Tham dự cuộc họp có khoảng 50 đại biểu gồm nhiều đảng viên cộng sản, công nhân các nhà máy, tiểu thương chợ Đông Ba, thợ may, học sinh và những thanh niên nông dân trẻ, nhiệt tình như Nguyễn Vịnh (Nguyễn Chí Thanh), Hoàng Anh, đại biểu của một số vùng nông thôn trong tỉnh. Sau phần báo cáo tình hình ở địa phương cơ sở, đồng chí Nguyễn Chí Diểu đề nghị đại biểu thảo luận nguyện vọng. Đại biểu công nhân đề xuất đòi tăng lương, giảm giờ làm, đòi làm đúng 8 giờ theo luật lao động mà Chính phủ Mặt trận Bình dân Pháp đã công bố. Đại biểu nông dân đòi giảm thuế, bỏ thuế thân. Trí thức đòi tự do báo chí, tự do hội họp... Về việc chuẩn bị đón Godart, các đại biểu thống nhất thành lập Ban tổ chức do Nguyễn Chí Diểu phụ trách và chủ trương tập trung lực lượng về Huế để biểu thị sức mạnh, đồng thời các huyện tích cực chuẩn bị tổ chức việc đi lại, ăn ở cho quần chúng khi huy động về Huế.

Ngay sau hội nghị, đại biểu toả về các địa phương tiến hành tổ chức và vận động quần chúng. Nguyễn Chí Diểu được phân công chỉ đạo nông thôn đã về Phong Điền, Quảng Điền gặp nhóm “Thanh niên sông Bồ” bàn bạc kế hoạch vận động nông dân lên Huế đón Godart. Phan Đăng Lưu, Lê Bá Dị và một số đồng chí khác về Phú Vang, Phú Lộc chuẩn bị huy động lực lượng. Gần ngày Godart đến Huế, không khí chính trị ở Huế và các huyện trong tỉnh trở nên sôi động.

Trước khi tham gia đoàn biểu tình đòi quyền lợi, nông dân các huyện đã được định hướng: “tiếp ông Godart là để tỏ cho viên đại sứ chiến tuyến bình dân Pháp biết rằng cái tình cảnh dân chúng xứ này khốn khổ là thế đó, bị bóc lột, bị đè nén là thế đó. Chính phủ Bình dân Pháp phải mau mau sửa đổi cái tình trạng ấy cho” [6].

Biết được tình hình Godart đang trên đường từ Vinh vào Huế, từ chiều 24-2, hàng vạn quần chúng đã tập trung về Huế với hàng ngũ chỉnh tề. Lê Bá Dị và các đảng viên ở Phú Lộc đã huy động được 60 chiếc thuyền chở hàng trăm nông dân, dọc theo sông Lợi Nông lên đậu dưới cầu Trường Tiền và bến Toà Khâm, đợi đón Godart. Dòng người gồm hàng ngàn nông dân các huyện Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà, Hương Thuỷ, Phú Vang cũng tuôn trào về Huế với khí thế sôi sục.

Báo Nhành Lúa đã tường thuật khí thế cách mạng lúc bấy giờ như sau: “Hơn một vạn quần chúng công, nông, học sinh và tiểu thương tiếp rước viên lao công đại sứ của Chánh phủ chiến tuyến bình dân... Anh em nông dân các tổng An Nông, Phú Lộc, An Thành, La Thành, Hiền Sĩ, Dương Xuân... mỗi người đều mang một miếng vải có in hình lưỡi liềm đỏ với hai chữ “nông dân”... Quần chúng sắp từ cầu Clémenceau [7] lên đến Phu Văn Lâu dài chừng hơn một cây số rưỡi, sắp đặt có trật tự, cứ từng đoạn một thì có một người mang băng đề 3 chữ “Ban tổ chức” để sắp đặt giữ gìn trật tự và hàng lối cho anh em” [8].

Các thành viên Ban Tổ chức tập trung ở trạm chỉ huy gần cầu Trường Tiền để trực tiếp lãnh đạo, tổ chức lực lượng quần chúng. Giúp việc cho Ban Tổ chức là các nhà báo thường xuyên bám sát đội hình, thông tin tình hình, nhắc nhở mọi người giữ vững khí thế.

Nhưng điều bất ngờ đã xẩy ra. Khi được thông báo về việc biểu dương lực lượng rầm rộ ở các nơi trên đường Godart đi qua, thực dân Pháp và tay sai tìm cách ngăn cản, không để Godart không đi tiếp vào Huế mà nghỉ lại tại Cửa Tùng. Trước tình hình đó, đồng chí Nguyễn Chí Diểu đã nói chuyện để củng cố tinh thần cho đồng bào, khẳng định việc chậm trễ của Godart là do âm mưu của bọn phản động thuộc địa, chúng muốn phá hoại cuộc biểu dương lực lượng của nhân dân, không muốn cho nhân dân gặp phái viên Chính phủ Pháp. Đồng chí kêu gọi đồng bào phải giữ vững tinh thần, sát cánh bên nhau, quyết đón bằng được Godart để nói lên nguyện vọng chính đáng của những người lao khổ, qua đó làm thất bại âm mưu của kẻ địch. Đoàn biểu tình của các huyện cử người về tiếp thêm đồ ăn, thức uống, sẵn sàng chờ đợi ngày biểu dương sức mạnh.

Ngày 25-2-1937, Godart vẫn chưa đến Huế. Ban tổ chức tiếp tục thuyết phục nhân dân kiên trì chờ đợi, đồng thời vận động các tổ chức và nhân dân Huế tương thân tương ái, giúp đỡ đồng bào ở xa để ai cũng được tham gia cuộc đấu tranh này. Tinh thần quyết tâm của nông dân đã được báo chí đương thời tường thuật: “Một uỷ viên nông dân đứng lên vẻ mặt rắn rỏi, cương quyết: anh em các giới khác thì sao không biết, chớ nông dân chúng tôi thì quyết ở đây mà thôi. Chúng tôi thà chịu đói, chịu khát… Người ta cố làm cho mình thất vọng, mình đừng thất vọng mới khỏi trúng kế… Nhờ lời nói đó mà các bạn đại biểu các giới khác tăng thêm tinh thần, anh em thợ, học sinh, chị em phụ nữ đều lần lượt biểu thị đồng tình”,  “quần chúng nông dân cũng khai hội nghị ở dưới đò (trên 60 chiếc) và tuyên bố nhất định ở lại… Còn về sự tiền bạc anh em cũng nói thôi không phải lạc quyên nhiều làm gì nữa. Anh em nông dân chúng tôi ai có còn được bao nhiêu trong lưng sẽ chung góp lại, cũng còn có thể nuôi sống thêm một ngày mai nữa” [9]. Nhờ đó, đội hình quần chúng vẫn giữ vững.

Ngày 26-2-1937, khi đoàn xe chở Godart xuất hiện, quần chúng đã ào tới vây quanh, Godart phải xuống xe, đi bộ. Hàng ngàn lá đơn được đưa tới, nhiều khẩu hiệu, biểu ngữ với nội dung: “Hoan nghênh Mặt trận Bình dân”, “Tự do báo chí”, “Tự do nghiệp đoàn”, “Bỏ thuế thân”... được căng lên. Quần chúng diễu hành qua Tòa Khâm với khí thế rầm rộ.

Ngày 27-2-1937, 15 đoàn đại biểu các giới gồm 50 người, trong đó có 1 đại biểu nữ nông dân và 6 nam nông dân thuộc 6 tổng do Ban Tổ chức dẫn đầu đến gặp Godart trao các bản Dân nguyện. Bản Dân nguyện của Ban Tổ chức do Phan Đăng Lưu soạn thảo với lời lẽ kiên quyết và đanh thép đã nêu rõ tình trạng bi đát của nhân dân Trung Kỳ dưới sự đàn áp, bóc lột của bọn phản động thuộc địa, đồng thời đề nghị Chính phủ Pháp giải quyết các vấn đề bức xúc trong đời sống chính trị, kinh tế xã hội của nhân dân. Đoàn đại biểu nông dân đưa thỉnh nguyện đòi được chia ruộng, được quyền bầu cử, ứng cử, tham gia công việc chính trị, đòi bỏ thuế thân…

Ngày 28-2-1937, khi phái đoàn Godart đi qua Phú Lộc, “trên 500 quần chúng nông dân kéo ra sắp hàng đôi rất có trật tự. Họ chờ từ 12 giờ, mãi đến 2 giờ rưỡi chiều xe ông Godart mới đến. Quần chúng hoan hô một cách nhiệt liệt, cứ từng đoạn một có tấm vải đề các khẩu hiệu bằng chữ tây để ông Godart hiểu quần chúng hô những câu gì… Họ đưa nhiều thỉnh cầu và nhất là nhờ ông can thiệp gấp cái cảnh tình khốn khổ của người dân quê” [10].

Thắng lợi của cuộc biểu dương lực lượng đã thể hiện sức mạnh của nhân dân, trong đó đông nhất là nông dân. Được Đảng tổ chức, lãnh đạo, nông dân đã đoàn kết đấu tranh công khai, góp phần quan trọng vào thành quả chung của phong trào dân chủ ở Thừa Thiên Huế.

Trên cơ sở tổ chức các phong trào dân chủ công khai ở Thừa Thiên Huế và ảnh hưởng của Đảng ngày càng lan rộng trong quần chúng, Xứ ủy Trung Kỳ chủ trương thành lập lại Tỉnh ủy và phát triển các tổ chức Đảng cơ sở. Hội nghị tháng 4-1937 do đồng chí Nguyễn Chí Diểu - Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, thay mặt Xứ ủy Trung Kỳ chủ trì đã quyết định thành lập lại Tỉnh ủy lâm thời do đồng chí Trần Công Xứng - Xứ ủy viên làm Bí thư Tỉnh ủy.

Để tuyên truyền những chủ trương mới của Đảng vào quần chúng lao động, Đảng đã sử dụng triệt để báo chí công khai nhằm tố cáo chế độ thuộc địa và phong kiến phản động, nêu lên tình cảnh khổ cực, bị áp bức bóc lột và những nguyện vọng của quần chúng nhân dân, nhất là giai cấp nông dân, tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, hướng dẫn quần chúng đấu tranh giành quyền dân sinh dân chủ.

Các báo Nhành Lúa, Sông Hương tục bản, báo Dân, Dân tiến, Dân muốn... tuyên truyền tình cảnh đói khổ của nông dân, cổ vũ mạnh mẽ cho cuộc đấu tranh đòi bỏ thuế thân, giảm thuế điền, đòi tự do dân chủ, tự do báo chí.

Báo Nhành lúa số 4, ngày 5-2-1937 có bài “Gạo thua quá! Dân kêu cứu! dân kêu cứu” nêu rõ: “Trước ở Huế, một đồng 80 lon sữa bò... bây giờ chỉ còn 40 lon. Mùa mạng không đến nỗi mất, cớ sao lúa gạo giá lên đến thế ? Chẳng qua bọn đại tư bản, đại điền chủ tải gạo ra xứ ngoài bán, dầu dân chúng xứ này chết cũng thây kệ... Chỉ có dân nghèo, thợ thuyền, dân cày... là bị thiệt thòi hơn cả”. Báo Dân số 17, ngày 7-10-1938 đăng bài “Dân bị lụt, kêu cứu”, cho biết: “Có chỗ như huyện Phong Điền, Thừa Thiên, những ruộng sâu không còn gặt lấy được một bông lúa... Tai trời, vạ nước đương hãm hàng mấy vạn con người ta vào cái cảnh điêu linh xơ xác”. Báo Dân số 8, năm 1938 đăng ý kiến của “một nhóm dân quê tỉnh Thừa Thiên” gửi Ủy ban lâm thời Hội Truyền bá quốc ngữ phản ánh tình trạng thất học của nông dân và con em của họ: “Trong xã hội, chúng tôi có lẽ là hạng người xấu số nhất. Từ vật chất đến tinh thần đều thiếu thốn. Thân chúng tôi chịu dốt đã đành mà đến ngay con em chúng tôi sau này cũng bị nạn mù chữ đeo đuổi đời này qua kiếp khác”.

Cũng trong số báo này, bài “Thanh niên trí thức đối với vấn đề cải cách hương thôn” đã mô tả bức tranh ảm đạm ở nông thôn: “Lâu nay hầu hết trên các mặt báo, dù tờ báo ấy là tả hay hữu, hàng ngày các bạn thấy nhan nhãn những chuyện phụ thu lạm bổ, bao chiếm ruộng đất, bức sách dân nghèo cùng những lời ca thán của dân quê về sự nhũng nhiễu của bọn hào cường, hương lý. Những việc ấy đúng sự thật một trăm phần trăm. Nhưng đó mới chỉ là một trong muôn nghìn nỗi khổ khác bị khuất lấp trong bóng lũy tre xanh... Thôn quê ngày nay đã quá tối tăm, mục nát, nó không thể để như thế được nữa, vì sự phẫn uất, đau khổ của dân quê lâu nay đã chất chứa tràn trề. Thôn quê ngày nay, chúng ta phải đau đớn mà nói rằng nó không có một tý ánh sáng nhân đạo nào lọt thấu. Sự bất công ấy, dân quê đã chịu đựng lâu lắm rồi. Những hạng ký, lý bất lực hay sâu mọt ấy, cố nhiên ngày nay phải nhường bước lại cho hạng người trẻ trung, có nghị lực, thật lòng mưu lợi ích cho dân, để đem lại cho hương thôn một chút ánh sáng với sự công bình”.

Để tuyên truyền, cổ động cho nông dân biết và ủng hộ các đại biểu tiến bộ ứng cử vào Viện Dân biểu Trung Kỳ, qua báo chí, các đảng viên cộng sản đã trình bày rõ quan điểm lựa chọn đại biểu phải là người xứng đáng thay mặt cho dân: “không kể thanh niên hay lão đại, tân học hay cựu học, hễ thành tâm vì dân, vì nước mà mưu việc công ích thì chúng tôi hết sức ủng hộ”, đồng thời xác định thái độ ứng cử viên và cử tri: “xin các ông đi ứng cử, nên xét trước tư cách mình đã, không đủ sức thì nên tự cáo lui trước đi, xin các ngài đi bầu cử phải xem xét cho kỹ càng, chọn hạng người ám nói, dám làm, mới có thể thay mặt cho mình mà mưu cầu quyền lợi dân chúng được” [11].

Việc tích cực vận động bằng nhiều hình thức, nhất là báo chí đã mang lại kết quả. Ứng cử viên do Mặt trận Dân chủ giới thiệu gồm các ông Hoàng Đức Trạch, Nguyễn Đình Diễn đều được đa số nông dân đồng tình ủng hộ. Nhờ đó, các ông đã trúng cử với số phiếu cao. Khi trở thành nghị viên Viện Dân biểu Trung Kỳ, các ông đã đấu tranh mạnh mẽ nhằm bảo vệ quyền lợi người dân.

Đầu năm 1938, chính quyền thực dân đưa ra Dự án tăng thuế (gọi là “Dự án thuế mới”) và chuẩn bị thông qua ở Viện Dân biểu Trung Kỳ. Theo dự án này, các thứ thuế đều tăng. Riêng thuế thân và thuế điền thổ tăng gấp đôi. Đây là đòn rất nặng đánh vào đời sống nhân dân lao động, đụng chạm trực tiếp đến quyền lợi người nông dân. Vì vậy, chống Dự án thuế mới là cuộc đấu tranh khá quyết liệt.

Những thông tin trao đổi về dự án tăng thuế đã được báo chí đăng tải. Báo Dân số 8, năm 1938, bài “Một vài ý kiến đối với sự sửa đổi thuế thân ở Trung Kỳ” viết: “Ai đã để ý xét ở dân quê về mùa sưu thuế thì sẽ thấy những cảnh Lý trưởng cho người đi đòi... có khi phải lấy đến cả nồi niêu, kiềng sắt, cày, bừa”. Bài viết đề nghị phải phân bổ rõ hạng giàu, nghèo: “Có như thế thì bọn giàu trong nước có chịu nặng lên ít nhiều, họ cũng không phàn nàn vì đó là họ gành đỡ cho đồng bào”.

Khi bản sao dự án thuế được đưa về các địa phương, tổ chức Đảng đã vận động quần chúng đấu tranh quyết liệt.

Tại các huyện phía bắc, những nông dân hăng hái chống thuế được tổ chức thành các “Tiểu ban vận động chống dự án thuế mới” theo đơn vị xã, tổng. Nhiệm vụ của Tiểu ban là phân công nhau về cơ sở tuyên truyền,  giải thích cho từng người dân rõ sự cần thiết phải đấu tranh, gây áp lực tại Viện Dân biểu, đòi Viện bác bỏ dự án tăng thuế, đòi Chính quyền thực dân mở rộng dân chủ, cải thiện dân sinh, giảm sưu thuế. Sau 2 tháng vận động, nhiều xã, tổng trong hai huyện Phong Điền và Quảng Điền đã tổ chức được các Tiểu ban vận động, lấy được bản Dân nguyện có chữ ký của nhiều người. Phong trào ngày càng lan rộng, thu hút nhiều nông dân tham gia.

Tại Phú Lộc, bên cạnh việc vận động nghị viên Hoàng Đức Trạch dùng diễn đàn nghị trường để đấu tranh, đồng chí Lê Bá Dị và tổ chức Đảng đã lãnh đạo nhân dân biểu tình chống dự án thuế mới. Tiêu biểu là các cuộc biểu tình của 300 nông dân Mỹ Lợi, 200 nông dân Nam Phổ Hạ. Bên kia đầm Cầu Hai, tổ chức Đảng ở Diêm Trường cũng tập hợp hàng trăm người dân các xã ven biển, tổ chức mít tinh, lên án chính sách thuế mới.

Ở Phú Vang, thực hiện chủ trương của Huyện ủy, đông đảo nông dân hai tổng Sư Lỗ và Quảng Xuyên đã tập trung về trảng cát giữa Trừng Hà và Dưỡng Mong tham gia cuộc mít tinh chống dự án tăng thuế.

Trước giờ Viện Dân biểu họp để thông qua dự án tăng thuế, một cuộc mít tinh của đông đảo quần chúng đã được tổ chức trước cổng chính của Viện. Một bản yêu sách yêu cầu Viện Dân biểu vì dân mà bác bỏ dự án thuế mới được đọc lên trước ông Viện trưởng, nhiều nghị viên và đông đảo quần chúng dự mít tinh. Bản yêu sách và những tập dân nguyện có hàng vạn chữ ký được trao cho ông Viện Trưởng. Quần chúng dự mít tinh hô vang các khẩu hiệu: “Bác bỏ dự án thuế mới”, “Ban hành quyền tự do dân chủ”, “Đại xá chính trị phạm”, “Mặt trận Bình dân Pháp muôn năm”, “Đả đảo phản động thuộc địa” v.v.. Cảnh sát đã kéo đến đàn áp và vây bắt một số nông dân.

Tuy vậy, cuộc đấu tranh của nông dân toàn tỉnh dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đạt kết quả. Ngày 16-9-1938, với đa số nghị viên đồng ý, Viện Dân biểu Trung Kỳ đã bác bỏ dự án tăng thuế của chính quyền thực dân. Sau đó ít lâu, chính quyền thực dân phải giảm thuế thân từ 2 đồng 5 hào xuống còn 6 hào/người. Thắng lợi của cuộc đấu tranh đã cổ vũ mạnh mẽ tinh thần của quần chúng, khẳng định sức mạnh đoàn kết của nông dân dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ Thừa Thiên Huế.

Đầu năm 1939, phong trào Mặt trận Bình dân Pháp tan rã, chính phủ Pháp chuyển sang cánh hữu. Ở Đông Dương, chính quyền phản động thuộc địa tăng cường đàn áp, bóc lột nhân dân. Giai đoạn vận động dân chủ hoạt động hợp pháp, nửa hợp pháp của cách mạng Việt Nam chấm dứt.

Tận dụng thời cơ được hoạt động công khai, hợp pháp, các tổ chức Đảng ở Thừa Thiên Huế đã triển khai có hiệu quả những chủ trương của Đảng, phát động nông dân đấu tranh. Bằng nhiều hình thức tổ chức và hoạt động phong phú, đa dạng, phong trào cách mạng 1936 - 1939 đã quy tụ hàng vạn nông dân, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh chính trị rộng khắp từ thành thị đến nông thôn, chuẩn bị điều kiện để bước vào những trận chiến đấu quyết liệt mới trong giai đoạn 1939 - 1945. Nông dân từng bước trưởng thành trong đấu tranh cách mạng. Tổ chức Nông hội đã tập hợp được đông đảo nông dân tham gia cuộc vận động đòi quyền dân sinh, dân chủ. Qua phong trào đấu tranh, nông dân đã tập hợp dưới ngọn cờ của Đảng bộ Thừa Thiên Huế, là cơ sở tiến tới tham gia Cách mạng tháng Tám năm 1945.

III. NÔNG DÂN THỪA THIÊN HUẾ TRONG PHONG TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC VÀ CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1939 - 1945

Sau khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ ngày 1-9-1939, thực dân Pháp ở Đông Dương đã tăng cường đàn áp các cuộc đấu tranh của nhân dân. Ngày 28-9-1939, Toàn quyền Đông Dương ra nghị định cấm tuyên truyền cộng sản, cấm lưu hành, tàng trữ tài liệu cộng sản, giải tán các hội ái hữu, nghiệp đoàn, đóng cửa báo chí cách mạng, đồng thời ra lệnh tổng động viên nhằm “cung cấp cho mẫu quốc tiềm lực tối đa của Đông Dương về quân đội, nhân lực, các sản phẩm và nguyên liệu” [12].

Tổ chức Đảng ở Thừa Thiên Huế và trong cả nước bị tổn thất, phong trào nông dân vừa được nhen nhóm rồi bùng lên mạnh mẽ trong phong trào dân chủ 1936 - 1939, trước sự khủng bố của kẻ thù cũng dần lắng xuống.

Tháng 11-1939, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng xác định nhiệm vụ trước mắt của cách mạng nước ta là đánh đổ thực dân Pháp và tay sai, chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất và đề ra khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc, chống tô cao, lãi nặng. Riêng về Nông hội, Nghị quyết của Hội nghị chỉ rõ: “Phải tổ chức các Nông hội để tranh đấu chống địa tô cao, chống sưu cao thuế nặng, chống nợ cao lời, chống đế quốc chiến tranh, đòi hoà bình, đòi có đất cày cấy v.v.. Nông hội là tổ chức bí mật và đi đến hệ thống toàn tỉnh” [13].

Tại Thừa Thiên Huế, nhiều cán bộ, đảng viên, quần chúng nông dân tích cực đã bị bắt bớ, tra tấn, tù đày, trong đó có đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Vịnh (Nguyễn Chí Thanh). Ngoài các nhà lao, trại giam như Hộ Thành, Thừa Phủ, Mang Cá, Tòa Khâm, thực dân Pháp còn lập thêm các “căng an trí” ở La Hy, Ưu Điềm cùng ba trại tập trung quản thúc ở Phong Điền, Phú Lộc và Quảng Điền để giam cầm các chiến sĩ cộng sản và nhiều nông dân từng tham gia đấu tranh tích cực trong phong trào dân chủ.

Lao Thừa Phủ là nơi giam cầm, tra tấn nhiều cán bộ, đảng viên chủ chốt của tỉnh. Cuộc đấu tranh ở đây rất quyết liệt, đặt dưới sự lãnh đạo của  chi bộ bí mật trong nhà lao do đồng chí Nguyễn Vịnh làm Bí thư.

Ở bên ngoài, một số ít đảng viên vẫn tiếp tục hoạt động, bí mật lãnh đạo nông dân đấu tranh. Nhiều cơ sở của Đảng là những nông dân tích cực vẫn bí mật che dấu cán bộ hoạt động.

Nhân kỷ niệm Cách mạng Pháp 14-7, đêm 13 rạng ngày 14-7-1940, trái với luận điệu “đã bắt hết cộng sản” của địch, nhiều truyền đơn được rải ở Huế, Thanh Lương (Hương Trà), Tài Ba, Sịa, Niêm Phò (Quảng Điền), Ưu Điềm, Phò Trạch, Phò Ninh (Phong Điền), Diêm Trường (Phú Lộc)… kêu gọi nhân dân chống chiến tranh đế quốc, chống bắt lính, khủng bố đàn áp, sưu cao thuế nặng v.v..

Đến tháng 9-1940, phát xít Nhật vượt biên giới Việt - Trung, tràn vào Lạng Sơn. Thực dân Pháp và phát xít Nhật cấu kết với nhau cùng thống trị nhân dân ta. Trước tình hình đó, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng vào tháng 11-1940 nhận định sự cấu kết giữa thực dân Pháp và phát xít Nhật đã đem đến cho nhân dân ta tai họa không kể xiết: “Đời sống của đại đa số dân chúng đã khốn quẫn về sinh hoạt đắt đỏ lại bị sưu thuế đóng góp làm cho khốn quẫn thêm. Số chi thu của những gia đình dân cày bị hao hụt. Giá hàng kỹ nghệ tǎng, tiền sắm sửa nông cụ, mua phân bón, nhất nhất cái gì cũng đắt mà nông sản bán không chạy và sưu thuế ngày một tǎng cao” [14]. Gắn với quyền lợi nông dân, Hội nghị chủ trương:

- Sung công ruộng đất, tài sản của bọn thực dân và phong kiến phản bội quyền lợi dân tộc.

- Xoá bỏ thuế thân và các thứ thuế má nợ nần cũ.

- Giảm địa tô chính, theo chế độ 3 - 7 (nông dân 7 phần, địa chủ 3 phần) v.v..

Nghị quyết Hội nghị Trung ương tháng 11-1940 là định hướng quan trọng để tổ chức Đảng các địa phương tiếp tục lãnh đạo nhân dân đấu tranh.

Tại Thừa Thiên vào giữa năm 1941, một số đồng chí vượt ngục thành công hoặc mãn hạn tù đã trở về các địa phương bắt đầu phục hồi lại tổ chức Đảng. Cuộc họp giữa hai nhóm Phong - Quảng và Diêm Trường (Phú Lộc) tại thôn Niêm Phò tháng 6-1941 do các đồng chí Hoàng Tiến, Trần Bá Song chủ trì đã quyết định xây dựng phát triển các tổ chức Đảng ở cơ sở và thành lập Ban vận động thống nhất Đảng tỉnh Thừa Thiên. Thực hiện chủ trương của hội nghị, nhóm Diêm Trường bí mật gây dựng cơ sở, kết nạp thêm đảng viên mới, thành lập 4 chi bộ với hơn 30 đảng viên, thành lập Tổng ủy Diêm Trường do đồng chí Lê Minh làm Bí thư. Tổng ủy cử các đảng viên về một số vùng nông thôn như Cầu Hai, Lương Điền, Vinh Hòa... để xây dựng cơ sở. Ở phía bắc, chi bộ ghép Phong - Quảng - Hương Trà gồm 12 đồng chí thành lập và chắp nối liên lạc, vận động nông dân đấu tranh.

Phong trào đấu tranh của nông dân trong tỉnh bắt đầu có sự chuyển biến. Nông dân Nghi Giang, Mỹ Lợi, Bàn Môn (khu 2, Phú Lộc), Phong Thái (Phong Điền), Niêm Phò (Quảng Điền) đấu tranh chống bắt phu, bắt lính và các hủ tục nặng nề ở nông thôn.

Cuối năm 1941, tình hình trong nước có nhiều chuyển biến, văn bản ký kết giữa phát xít Nhật và thực dân Pháp ở Đông Dương ngày 9-12-1941 buộc Pháp phải cung cấp mọi phương tiện cho quân đội Nhật hoạt động. Để đảm bảo việc cung cấp lương thực, thực phẩm cho quân đội Nhật, thực dân Pháp và phong kiến tay sai tăng cường vơ vét, bóc lột. Nông dân tiếp tục lâm vào tình trạng khó khăn, đói kém.

Ở Huế, Nhật lập Tòa Lãnh sự do Yokohama làm Tổng Lãnh sự và đưa hơn 60 hiến binh đóng gần Dinh Phủ doãn, ra sức tuyên truyền cho thuyết “Đại Đông Á”, “Khối thịnh vượng chung”, “Giải phóng các dân tộc nhược tiểu”... để lừa bịp, đánh lạc hướng cuộc đấu tranh của nhân dân ta. Một số chính khách cơ hội bắt đầu nhảy ra tuyên truyền cho Nhật và lập các tổ chức thân Nhật. Thông qua các tổ chức xã hội như Thanh niên Phật tử, Hội Thể dục thể thao, Hội Truyền bá quốc ngữ, Đảng tuyên truyền cho nông dân nhận thức được bản chất xâm lược của phát xít Nhật và sự hèn nhát, bạc nhược của thực dân Pháp.

Cuối năm 1941, do mất liên lạc với Trung ương và Xứ ủy Trung Kỳ nên các tổ chức Đảng ở Thừa Thiên Huế vẫn chưa tiếp thu được Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 8 (5-1941) về việc thành lập Mặt trận Việt Minh và chuẩn bị mọi mặt để đi từ khởi nghĩa từng phần đến tổng khởi nghĩa trong cả nước khi thời cơ đến.

Tháng 2-1942, đồng chí Nguyễn Vịnh vượt ngục Buôn Mê Thuột trở về đã khẩn trương tìm hiểu tình hình để có giải pháp chỉ đạo phù hợp. Tháng 7-1942, đồng chí triệu tập Hội nghị cán bộ Đảng tại Bến Tu (Quảng Điền). Các đại biểu dự Hội nghị phân tích tình hình trong tỉnh, đề ra nhiệm vụ trước mắt là phải tận dụng những điều kiện hợp pháp để tuyên truyền cho nhân dân thấy rõ bản chất xâm lược của thực dân Pháp và phát xít Nhật đằng sau chiêu bài mị dân bịp bợm; tổ chức, lãnh đạo và tập hợp nhân dân tiếp tục đấu tranh; ra báo Vì nước tuyên truyền chương trình, điều lệ, chính sách của Việt Minh. Để tập hợp lực lượng, lãnh đạo phong trào, Hội nghị bầu Ban Chấp hành Đảng bộ lâm thời gồm 5 đồng chí, do đồng chí Nguyễn Vịnh làm Bí thư Tỉnh ủy.

Triển khai chủ trương của Hội nghị, một số trạm giao thông liên lạc dựa vào những gia đình nông dân cơ sở ở Nghi Giang, Phú Lộc (nhà ông Phan Duệ), ngoại thành Huế (nhà ông Phạm Mới ở chợ Xép), Phong Điền (nhà đồng chí Phạm Oanh), Phú Vang (nhà một quần chúng ở chợ Cống)...  đã hình thành và tích cực hoạt động.

Một số tổ chức Đảng được xây dựng và phát triển, thành lập huyện ủy lâm thời Phú Lộc, chi bộ ghép Hương Thủy - Phú Lộc, Hương Trà - ngoại ô Huế. Chi bộ liên huyện Phong - Quảng kết nạp thêm nhiều đảng viên mới, tách thành 2 chi bộ Phong Điền và Quảng Điền. Huyện ủy Phú Lộc còn tổ chức đội tự vệ gồm 7 người là những thanh niên nông dân yêu nước, nhiệt tình cách mạng làm nhiệm vụ bảo vệ tổ chức Đảng của huyện và trở thành lực lượng nòng cốt trong Cách mạng tháng Tám sau này.

Công tác huấn luyện được chú trọng. Giữa cồn Rau Câu (đầm Cầu Hai), được các cơ sở ở Vạn Đò giúp đỡ, bảo vệ và đưa đón cán bộ, đồng chí Nguyễn Vịnh mở các lớp huấn luyện ngắn ngày cho cán bộ, đảng viên trong tỉnh. Là cán bộ Đảng xuất thân từ nông dân, đồng chí thấu hiểu tình cảnh người nông dân, truyền đạt thấu đáo những nội dung trong Chương trình của Mặt trận Việt Minh liên quan đến nông dân như: “Nông dân ai cũng có ruộng đất để cày cấy, giảm địa tô, cứu tế nông dân trong những năm mất mùa...; Bỏ thuế thân và các thứ thuế do Pháp - Nhật đặt ra. Lập một thứ thuế nhẹ nhàng và công bằng... Dẫn thủy nhập điền, bồi đắp đê điều làm cho nền nông nghiệp được phồn thịnh... Cho dân chúng được tự do khai khẩn đất hoang, có chính phủ giúp đỡ... Nông hội từ nay gọi là Việt Nam Nông dân cứu quốc hội, thu nạp hết thảy nông dân, đến cả hạng phú nông, địa chủ muốn tranh đấu đuổi Pháp - Nhật” [15].

Những bài giảng của đồng chí đã được tập hợp và in li tô tại nhà ông Lê Tự Thanh ở Diêm Trường (Phú Lộc), phát hành làm tài liệu tuyên truyền trong tỉnh.

Trước những hoạt động mới của Đảng bộ, địch tiến hành khủng bố, một số cơ sở cách mạng mới xây dựng bị đánh phá. Tháng 7-1943, trong một chuyến công tác ở Phú Lộc, Nguyễn Chí Thanh bị địch bắt. Biết anh là chiến sĩ kiên cường, vượt ngục ra hoạt động trở lại, bọn mật thám liệt anh vào loại “tù nguy hiểm”, đưa trở lại nhốt chặt ở nhà đày Buôn Mê Thuột. Tỉnh ủy mới củng cố, các cơ sở ở nhiều vùng nông thôn trong tỉnh mới được xây dựng lại bị tổn thất.

Để tiếp tục lãnh đạo phong trào, Tỉnh ủy bầu đồng chí Nguyễn Sơn làm Bí thư và cử cán bộ đi tìm bắt liên lạc với cấp trên, xin chỉ thị mới.

Giữa năm 1944, tại ngã ba Sình, Tỉnh ủy họp mở rộng đề ra kế hoạch đẩy mạnh tuyên truyền vạch trần âm mưu, thủ đoạn của phát xít Nhật và tay sai, giải thích đường lối của Mặt trận Việt Minh, tiếp tục lưu hành tờ báo Vì Nước làm công cụ tuyên truyền của Đảng. Hội nghị quyết định chuyển cơ quan Tỉnh ủy về gấn chợ Xép (Huế) để thuận tiện cho việc chỉ đạo phong trào.

Cuối năm 1944, Nhật - Pháp đua nhau vơ vét lúa gạo, dẫn đến tình trạng khan hiếm lương thực. Đời sống nông dân khó khăn, nạn đói lan tràn, nhất là ngư dân các vùng làm nghề cá ven biển, trên các đầm Cầu Hai, đầm Chuồn, phá Tam Giang. Ở nhiều vùng trồng lúa, màu thuộc các huyện Phong Điền, Quảng Điền nông dân cũng bị đói.

Trước tình hình đó, Tỉnh ủy quyết định mở cuộc vận động cứu đói, đấu tranh đòi nhà cầm quyền mở các cuộc phát chẩn cho nông dân đang thiếu ăn, trừng trị bọn đầu cơ tích trữ, đòi nhà nước bán gạo cho dân. Thông qua các hội Từ thiện, Cứu đói... nông dân nhiều vùng trong tỉnh đã giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau trong tình làng nghĩa xóm. Tại Phú Lộc, Huyện ủy tổ chức các hội cứu tế, nấu cháo phát chẩn cho những nông dân nghèo, đồng thời lập các đoàn vào phía nam mua lương thực cứu đói.

Qua cuộc vận động cứu đói, nông dân tăng thêm lòng tin vào Đảng, thấy rõ hơn tội ác của Pháp - Nhật, càng đoàn kết đấu tranh vì những mục tiêu chung của sự nghiệp cách mạng.

Đêm 9-3-1945, Nhật đảo chính Pháp trên toàn cõi Đông Dương. Ở Huế, vào lúc 21giờ 15 phút, quân Nhật đồng loạt nổ súng tấn công quân Pháp ở đồn Mang Cá, trại lính khố xanh, Sở Công Chánh, Tòa Khâm. Đến chiều 10-3-1945, quân Nhật làm chủ hoàn toàn thành phố Huế và tỉnh Thừa Thiên. Thực hiện chính sách “Đại Đông Á”, phát xít Nhật tiến hành chiến dịch tuyên truyền mị dân. Chúng tuyên bố “trao trả độc lập” cho Việt Nam mà đại diện là Bảo Đại và triều đình Huế. Ngay sau đó, Bảo Đại ra đạo dụ “Tuyên cáo Việt Nam độc lập”, thực chất là tuyên bố công khai việc thay thầy, đổi chủ của triều đình. Bảo Đại đã “tự coi mình là một phần tử Đại Đông Á... một lòng tin cậy ở lòng thành Nhật Bản đế quốc, quyết chí hợp tác với Nhật” [16].

Ngày 19-3-1945, Viện Cơ mật do Phạm Quỳnh đứng đầu xin từ chức. Bảo Đại theo lệnh Nhật lập nội các mới. Ngày 17-4-1945, chính phủ thân Nhật Trần Trọng Kim thành lập. Sự ra đời của Chính phủ Trần Trọng Kim kéo theo sự xuất hiện nhiều tổ chức chính trị, xã hội thân Nhật, hoạt động công khai như Hội Tân Việt Nam, tổ chức Thanh Niên Việt Nam,  Trường Thanh niên Tiền tuyến. Nhiều trí thức có tên tuổi, thanh niên, học sinh chưa nhận thức đầy đủ về “quyền độc lập” của nước Nam do Nhật “trao trả” đã háo hức tham gia các tổ chức này. Hầu hết nông dân chưa nhận thức một cách đầy đủ âm mưu, thủ đoạn của phát xít Nhật và xu hướng chính trị của các tổ chức thân Nhật.

Tình hình tư tưởng chính trị ở Thừa Thiên Huế diễn biến rất phức tạp, đòi hỏi Đảng bộ phải có những chủ trương, giải pháp đúng đắn, kịp thời để tập hợp lực lượng quần chúng, nhất là trí thức, thanh niên đang bị chính phủ thân Nhật lôi kéo, mua chuộc.

Ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ban hành Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, nêu rõ nhiệm vụ đánh đuổi phát xít Nhật, thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân, sẵn sàng chuyển sang tổng khởi nghĩa khi có thời cơ.

Vì chưa liên lạc được với Trung ương nên Tỉnh ủy chưa tiếp thu đầy đủ nội dung chỉ thị, mà chỉ “dựa vào tài liệu xin được của một số đồng chí quen biết ở các tỉnh bạn, qua đồng chí Hồng Xích Tâm và các tài liệu đã được phổ biến trong các nhà tù” [17], nhưng với lực lượng mới là các đảng viên từ các nhà tù và Căng an trí được trả tự do trở về, Đảng bộ đã tập hợp thành một khối thống nhất, giương cao ngọn cờ của Mặt trận Việt Minh, tích cực chuẩn bị mọi mặt tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền.

Ngày 1-5-1945, tại Mỹ Lợi (Nghi Giang, Phú Lộc), đông đảo nông dân đã tham gia cuộc mít tinh lớn do Huyện uỷ tổ chức. Đồng chí Lê Quang Thuyết thông báo tình hình cách mạng trong nước và chủ trương của Đảng xác định kẻ thù của nhân dân ta là phát xít Nhật, chính phủ tay sai và kêu gọi nhân dân đoàn kết tham gia phong trào cách mạng, chuẩn bị theo Đảng giành chính quyền. Sau cuộc mít tinh, quần chúng tỏa về các địa phương sôi nổi tham gia các tổ chức cứu quốc.

Bên cạnh phong trào Việt Minh phát triển rất mạnh ở Phú Lộc, tại Phong Điền, từ nhà lao Đăk Tô trở về, đồng chí Hoàng Anh đã lần lượt đến thăm và bắt liên lạc với các cơ sở mà trước khi bị bắt đã được giao công tác. Sau hơn một tuần lễ, đồng chí đã nối lại liên lạc với các cơ sở ở tổng Phù Ninh và tổ chức một số Hội Nông dân cứu quốc, Thanh niên cứu quốc ở Phù Ninh, Thượng An, Bồ Điền. Các đồng chí ở Hương Trà, Quảng Điền, Phú Vang như Đặng Cháu, Nguyễn Dĩnh, Đặng Thược, Nguyễn Điệt… và nhiều đồng chí ở tù về cũng đã chủ động tuyên truyền vận động quần chúng tham gia các tổ chức cách mạng, trong đó đông đảo nhất là tham gia Hội Nông dân cứu quốc.

Nhanh nhạy trước sự chuyển biến mau lẹ của tình hình quốc tế và trong nước, ngày 23-5-1945, trên một chiếc thuyền lớn giữa đầm Cầu Hai (Phú Lộc), Tỉnh ủy lâm thời tổ chức hội nghị Tỉnh ủy mở rộng, dưới danh nghĩa hội nghị Việt Minh tỉnh Nguyễn Tri Phương, do đồng chí Nguyễn Sơn, Bí thư Tỉnh ủy lâm thời chủ trì. Trong 3 ngày làm việc khẩn trương, hội nghị đã thảo luận, đánh giá tình hình trong nước, trong tỉnh, nhận định thời cơ khởi nghĩa và vạch ra những nhiệm vụ cấp bách trước mắt nhằm đẩy mạnh phong trào cách mạng trong toàn tỉnh.

Về thời cơ khởi nghĩa, hội nghị cho rằng dù quân Đồng minh đổ quân đánh Nhật trên đất nước ta hay quân Đồng minh chưa vào nhưng Nhật đã đầu hàng thì chúng ta phải chớp thời cơ, cùng cả nước khởi nghĩa giành chính quyền, để khi quân Đồng minh vào nhân dân ta đã làm chủ đất nước.

Hội nghị đặc biệt chú trọng công tác tuyên truyền nhằm phân hóa, cô lập kẻ thù, tập hợp lực lượng, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân trong Mặt trận Việt Minh, tạo nên sức mạnh tổng hợp trong khởi nghĩa giành chính quyền. Trước hết, đảng viên, cán bộ Mặt trận và các đoàn thể cứu quốc phải tiếp xúc rộng rãi với quần chúng, tuyên truyền chính sách đoàn kết cứu nước của Mặt trận Việt Minh, vận động mọi người tham gia các tổ chức cứu quốc, ủng hộ Việt Minh, giải thích cho quần chúng rõ bản chất của các tổ chức như Tân Việt Nam, Thanh Niên Việt Nam là trò lừa bịp chính trị nhằm lôi kéo nhân dân, nhất là thanh niên để phục vụ cho mục đích xâm lược của chúng. Thái độ đúng đắn đối với các tổ chức này là phải “phân biệt bọn Việt gian thân Nhật với những người vì hiểu lầm mà tham gia. Đối với bọn Việt gian thân Nhật, phải tìm cách vạch trần bộ mặt phản nước, lừa dân của chúng. Đối với những người vì hiểu lầm mà tham gia thì tìm cách gần gũi chỉ cho họ thấy rõ âm mưu thâm độc, xảo trá của phát xít Nhật và tay sai” [18].

Hội nghị quyết định xúc tiến mạnh mẽ việc phát triển tổ chức tự vệ, chọn những quần chúng hăng hái, dũng cảm trong các hội cứu quốc: công nhân, nông dân, thanh niên và phụ nữ, hình thành các tổ, đội tự vệ sẵn sàng bảo vệ Việt Minh.

Hội nghị bầu Ban Chấp hành Việt Minh tỉnh (bí danh là Việt Minh Nguyễn Tri Phương) gồm 13 uỷ viên, do Nguyễn Sơn làm Bí thư.

Trước sự chuyển biến nhanh chóng của tình hình, trong điều kiện chưa nhận được sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, Hội nghị đầm Cầu Hai của Đảng bộ tỉnh đã chủ động đề ra chủ trương và sách lược để lãnh đạo phong trào cách mạng thắng lợi. “Sau này, chúng tôi đối chiếu với các chỉ thị của Trung ương thấy rất phù hợp. Hội nghị đã đề ra những chủ trương chỉ đạo cho việc chuẩn bị khởi nghĩa rất kịp thời và đúng đắn” [19].

Sau hội nghị, đại biểu tỏa về các địa phương khẩn trương triển khai nhiệm vụ. Thông qua tuyên truyền miệng, truyền đơn, đảng viên và cán bộ các đoàn thể đã tuyên truyền cho quần chúng nhân dân thấy những thiệt thòi, nhục nhã của người dân mất nước, chỉ rõ thời cơ cứu nước đang đến gần, vận động mọi người ủng hộ và gia nhập các tổ chức của Việt Minh.

Sau hai tháng tuyên truyền, vận động, phong trào các huyện và thành phố phát triển mạnh. Với sự tham gia đông đảo của lực lượng nông dân, các huyện đều thành lập được Mặt trận Việt Minh với những mật danh riêng: Phú Vang (Việt Minh Thuận Tú), Hương Trà (Việt Minh Bình Sơn), Quảng Điền (Việt Minh Trường Giang), Phong Điền (Việt Minh Trường Sơn), Phú Lộc (Việt Minh Bạch Vân), Việt Minh Hương Thủy.

Tiếp đó, Việt Minh Nguyễn Tri Phương đã thống nhất với Việt Minh Thuận Hóa. Việc thống nhất thành một tổ chức Việt Minh đã tạo điều kiện thuận lợi cho phong trào phát triển. Công tác vận động công chức, kể cả quan chức trong Chính phủ Trần Trọng Kim, nhân sĩ trí thức, thanh niên, học sinh và binh lính được đẩy mạnh. Không khí chuẩn bị khởi nghĩa bắt đầu lan rộng khắp các địa phương.

Tháng 7-1945, Thường vụ Việt Minh tỉnh triệu tập cuộc họp tại Ngọeo Giàn xay (An Cựu) để bàn biện pháp xúc tiến vũ trang khởi nghĩa. Cuộc họp nhận định thời cơ đang đến gần, phải gấp rút tổ chức các đội vệ chiến đấu, vận động Chính phủ Trần Trọng Kim từ chức, cô lập những phần tử phản động, lôi kéo các thành phần trung gian và kêu gọi binh lính người Việt trong quân đội Nhật trở về với nhân dân.

Ngày 10-8-1945, được tin Hồng quân Liên Xô đánh mạnh quân Nhật ở Mãn Châu, Thường vụ Việt Minh tỉnh liền thông báo cho các huyện, thành phố Huế về nhận định của Thường vụ là thời cơ đang đến gần, cần đẩy mạnh hơn nữa việc tuyên truyền vận động quần chúng sẵn sàng đứng lên khởi nghĩa dưới cờ Việt Minh, giành chính quyền về tay nhân dân khi thời cơ đến.

Ngày 15-8-1945, được tin phát xít Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng minh, dưới danh nghĩa Việt Minh Nguyễn Tri Phương, Thường vụ Tỉnh ủy triệu tập hội nghị bất thường, quyết định một số nhiệm vụ cấp bách như: thông báo ngay cho các huyện và thành phố biết tin Nhật đã tuyên bố đầu hàng Đồng minh, thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền đã đến. Chỉ thị cho Thường vụ Việt Minh 6 huyện và thành phố Huế đẩy mạnh việc tuyên truyền, giải thích cho quần chúng thấy rõ đã đến lúc đứng lên lật đổ chính quyền phản động, thành lập chính quyền cách mạng; phải chuẩn bị lực lượng để khi có lệnh của tỉnh là phát động quần chúng khởi nghĩa. Thường vụ Tỉnh uỷ quyết định chọn hai huyện Phong Điền và Phú Lộc là những địa phương có phong trào phát triển mạnh khởi nghĩa trước, tiếp đến là các huyện khác, sau đó sẽ tiến về Huế khởi nghĩa giành chính quyền.

Để thúc đẩy mạnh mẽ việc chuẩn bị khởi nghĩa, Thường vụ Việt Minh tỉnh cho in hàng triệu tờ truyền đơn, hướng dẫn tổ chức và tiến hành khởi nghĩa lật đổ chính quyền cũ, thành lập chính quyền cách mạng các cấp. Việc truyền đạt chủ trương, hướng dẫn cách làm thông qua truyền đơn đã giúp cán bộ Nông hội ở cơ sở nắm được nhiệm vụ cụ thể để triển khai, đồng thời mở rộng phạm vi ảnh hưởng của Mặt trận Việt Minh trong nhân dân. Qua đó, các tổ chức quần chúng, trong đó đông đảo nhất là hội viên Hội Nông dân cứu quốc đã bí mật tham gia luyện tập tự vệ, chuẩn bị khởi nghĩa.

Ngày 20-8-1945, đoàn cán bộ Trung ương gồm Tố Hữu, Hồ Tùng Mậu và Nguyễn Duy Trinh đến Huế tham gia chỉ đạo khởi nghĩa. Đoàn cán bộ Trung ương hoàn toàn thống nhất với kế hoạch khởi nghĩa của Thường vụ Việt Minh tỉnh. Ngay trong ngày 20-8-1945, Ủy ban Khởi nghĩa được thành lập gồm các đồng chí Tố Hữu (Chủ tịch), Hoàng Anh (Phó Chủ tịch)  và các ủy viên Lê Tự Đồng, Lê Khánh Khang, Hoàng Phương Thảo, Nguyễn Sơn.

Ngày 23-8-1945, Chính phủ Trần Trọng Kim có kế hoạch tổ chức cuộc mít tinh ở sân vận động Huế để mừng việc Nhật trao trả Nam Kỳ cho triều đình Huế. Lợi dụng sự kiện này, Việt Minh tỉnh đã huy động nhân dân các huyện về Huế khởi nghĩa giành chính quyền.

Ủy ban Khởi nghĩa chỉ đạo các huyện, thành phố khẩn trương triển khai kế hoạch chuẩn bị. Ban Chấp hành Việt Minh thành phố Huế, các huyện, các đoàn thể cứu quốc đẩy mạnh công tác vận động nông dân, tích cực làm tốt công tác binh vận, nhanh chóng uy hiếp, làm tê liệt chính quyền bù nhìn ở địa phương, sắp xếp kế hoạch huy động quần chúng tham gia mít tinh, tuần hành trong ngày 23-8. Lực lượng vũ trang gồm các đội tự vệ, các đội lính Bảo an ta đã nắm được và học viên trường Thanh niên Tiền tuyến làm nhiệm vụ bảo vệ quần chúng tuần hành, bảo vệ cuộc mít tinh ở sân vận động Huế.

Nhờ triển khai nhanh chóng và đồng bộ những chủ trương của Thường vụ Việt Minh tỉnh, trong các ngày từ 15-8 đến 23-8-1945, Ủy ban Khởi nghĩa các huyện đã huy động quần chúng mít tinh, biểu tình tuần hành thị uy, mang theo các loại vũ khí thô sơ, băng, cờ, biểu ngữ, hô vang các khẩu hiệu “Hoan hô Mặt trận Việt Minh”, “Việt Nam độc lập muôn năm”... kéo về các huyện đường, tuyên bố giải tán chính quyền bù nhìn, thành lập chính quyền cách mạng.

Ở Phong Điền, ngày 18-8-1945, dưới sự lãnh đạo của Việt Minh Trường Sơn, nông dân và tự vệ tổng Phò Ninh và Hiền Lương cùng các làng lân cận với trang bị vũ khí thô sơ, giương cao băng cờ, khẩu hiệu nổi dậy giành chính quyền ở cấp xã, tổng. Ngày 19-8-1945, nông dân các tổng Phò Trạch, Chánh Lộc, Phong Thu, Vĩnh Xương... giành chính quyền ở tổng, sau đó, kéo vào bao vây huyện đường ở Ưu Điềm. Uỷ ban khởi nghĩa huyện tuyên bố xoá bỏ chính quyền tay sai của phát xít Nhật, thành lập chính quyền cách mạng.

Tại Phú Lộc, Uỷ ban Khởi nghĩa huyện quyết định huy động quần chúng nhân dân giành chính quyền ở huyện đường (Cầu Hai), sau đó toả về các xã. Ngày 19-8-1945, đông đảo nông dân các tổng Diêm Trường, An Nông, An Cư và Lương Điền, có các đội tự vệ vũ trang hậu thuẫn đã kéo về huyện đường. Huyện trưởng Tôn Thất Lâm bỏ trốn. Thư lại và lính huyện nộp triện đồng, sổ sách, tài liệu và ngân quỹ cho chính quyền cách mạng. Đoàn biểu tình tiếp tục thuần hành, thị uy, kết thúc cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở các xã thôn còn lại vào ngày 20-8-1945. Sau khởi nghĩa ở các tổng vùng đồng bằng, các đồng chí Lê Tự Lập, Lê Văn Câu, Võ Bính cùng đội tự vệ vượt đèo La Hy, tiến lên vùng núi, tổ chức khởi nghĩa. Đông đảo nông dân các bản làng tham gia các đoàn biểu tình, tuyên bố xóa bỏ chế độ chánh tổng, thành lập chính quyền cách mạng. Vùng rừng núi phía tây Phú Lộc thành lập đơn vị hành chính mới là xã Xuân Lộc, thuộc tổng Lương Điền.

Ở Hương Thủy, ngày 20-8-1945, đông đảo nông dân mang theo nhiều thứ vũ khí thô sơ, tập hợp tại các ngôi đình thuộc các làng Thanh Thủy Thượng, Dạ Lê Thượng, Thần Phù, Bảng Lãng, hình thành các đoàn biểu tình với hàng ngũ chỉnh tề, tỏa về giành chính quyền ở tổng, xã. Ngày 22-8-1945, các đoàn biểu tình rầm rộ kéo về huyện đường, buộc các lý hương vốn được tri huyện gửi trát triệu tập về huyện lỵ “đón quan trên”, nộp ấn triện, sổ sách… Tại cuộc mít tinh lớn tổ chức ở huyện đường, Chủ tịch Uỷ ban khởi nghĩa huyện tuyên bố xoá bỏ chính quyền cũ, thành lập ủy ban cách mạng lâm thời.

Ở Phú Vang, từ ngày 20-8 đến 21-8-1945, dưới sự lãnh đạo của Việt Minh Thuận Tú, nông dân các tổng Sư Lỗ, Kế Mỹ, Quảng Xuyên, Mậu Tài, Ngọc Anh và Dương Nỗ đã vùng lên khởi nghĩa giành chính quyền ở tổng. Ngày 22-8, hơn 5.000 người, hầu hết là nông dân, đại biểu của các tổng với các loại vũ khí thô sơ như giáo, mác, gậy gộc..., hàng ngũ chỉnh tề, kéo về mít tinh tại đình làng Dương Nỗ chứng kiến sự kiện tri huyện Phú Vang giao ấn triện, sổ sách cho đại diện Uỷ ban khởi nghĩa và lễ ra mắt của chính quyền cách mạng.

Ở Hương Trà, trong các ngày từ 20-8 đến 22-8-1945, Việt Minh huyện đã lãnh đạo nông dân nhiều nơi thuộc các tổng Phú Ốc, Hương Cần… nổi dậy giành chính quyền. Ngày 23-8-1945, Ủy ban khởi nghĩa đã huy động đông đảo quần chúng thuộc 6 tổng tiến về khởi nghĩa giành chính quyền tại Bao Vinh, sau đó kéo về Huế tham gia khởi nghĩa ở tỉnh.

Ở Quảng Điền, ngày 23-8-1945, đông đảo quần chúng cả 5 tổng đã rầm rộ kéo về tại huyện lỵ Hạ Lang, tuyên bố chấm dứt ách áp bức phong kiến, thành lập chính quyền cách mạng.

Tại thành phố Huế, ngày 22-8, Ủy ban Khởi nghĩa huy động quần chúng biểu tình trên các đường phố, kéo đến chiếm lĩnh các bộ, công sở và doanh trại lính Bảo an. Đêm 22-8, trước áp lực của cuộc khởi nghĩa, Bảo Đại - vị vua cuối cùng của triều đình phong kiến nhà Nguyễn phải tuyên bố  “nhường quyền lãnh đạo quốc gia cho Việt Minh”, “Trẫm ưng làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ” [20]. Ủy ban Khởi nghĩa gửi tối hậu thư yêu cầu “nhà vua phải giao lại cho chính quyền cách mạng đội lính khố vàng với tất cả trang bị, vũ khí, đạn dược; báo cho quân Nhật biết là nhà vua đã trao tất cả quyền bính cho Chính quyền cách mạng rồi; nhà vua phải điện cho tất cả các tỉnh trưởng phải giao chính quyền cho cách mạng” [21]. Chính quyền cách mạng hứa sẽ bảo đảm an toàn tính mạng và quyền công dân của Bảo Đại. Nhận được tối hậu thư, Bảo Đại triệu tập họp nội các, nhất trí chấp nhận những yêu cầu của Việt Minh và sẽ từ bỏ ngai vàng bằng hình thức thoái vị.

Ủy Ban khởi nghĩa quyết định sẽ tổ chức mít tinh lớn tại sân vận động Huế để ra mắt chính quyền cách mạng, đồng thời chuẩn bị tổ chức lễ thoái vị của Bảo Đại khi có đại diện Chính phủ Trung ương vào.

Chiều 23-8-1945, trên các đường phố, quần chúng nhân dân giương cao cờ đỏ sao vàng, biểu ngữ, mang theo nhiều vũ khí thô sơ xuống đường, biểu dương lực lượng. Đoàn biểu tình của các huyện với sự tham gia của hàng vạn nông dân cũng nhanh chóng tập trung về Huế.

16 giờ ngày 23-8-1945, tại sân vận động Huế, hàng vạn đồng bào trong hàng ngũ chỉnh tề dưới rừng cờ đỏ sao vàng, tham dự mít tinh chào mừng khởi nghĩa thắng lợi. Thay mặt Ủy ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh, Chủ tịch Tôn Quang Phiệt kêu gọi toàn dân đoàn kết, xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng. Hàng vạn nông dân náo nức sống trong không khí ngày hội của một cuộc cách mạng đổi đời.

Ngày 23-8-1945 trở thành ngày lịch sử ghi dấu thắng lợi hoàn toàn của cuộc Cách mạng tháng Tám ở Thừa Thiên Huế.

Sau thắng lợi ở Huế, Ủy ban Giải phóng dân tộc Việt Nam đã gửi đến Bảo Đại bức điện với nội dung: “Hoan nghênh tinh thần dân chủ và đoàn kết, thống nhất của Hoàng đế. Yêu cầu Hoàng đế hạ dụ chính thức thoái vị để yên lòng dân” [22]. Ngày 29-8-1945, phái đoàn Chính phủ cách mạng lâm thời gồm Trần Huy Liệu, Nguyễn Lương Bằng và Cù Huy Cận vào gặp Bảo Đại bàn lễ thoái vị.

Chiều 30-8-1945, Lễ thoái vị của Bảo Đại được tổ chức tại lầu Ngọ Môn trong Kinh thành. Hàng vạn đại biểu nhân dân 6 huyện, chủ yếu là nông dân và các tầng lớp nhân dân thành phố Huế đã tập hợp chỉnh tề trên sân cỏ từ Ngọ Môn đến Kỳ đài. “Đứng phía trước là 18 hàng nữ sinh mặc quần trắng, áo dài trắng. Tiếp theo là đoàn phụ nữ mặc áo dài tím, quần trắng. Các đoàn bộ đội súng trường cắm lưỡi lê sáng loáng đứng bên trái. Các đoàn thanh niên, học sinh mặc áo sơ mi trắng, quần xanh đứng phía sau cùng. Phía chính giữa là đại biểu nhân dân tỉnh Thừa Thiên và thành phố Huế, mặc áo đủ màu, đủ kiểu, xếp thành một ô vuông rất lớn... Đúng là hình ảnh một khối đoàn kết chặt chẽ và vững bền. Nổi bật lên trong ô vuông này, giữ rừng người này là cờ đủ cỡ to, nhỏ bay phần phật, là khẩu hiệu cách mạng, súng, gươm, giáo, gậy, mác, đòn xóc dựng lên tua tủa, san sát” [23]. Trong không khí trang nghiêm, đại diện Chính phủ lâm thời đọc bức điện mới nhận, thông báo ngày 2-9-1945 tại Ba Đình, Hà Nội sẽ diễn ra buổi lễ trọng thể, Chính phủ sẽ ra mắt Quốc dân đồng bào, Chủ tịch Hồ Chí Minh sẽ đọc Tuyên ngôn độc lập. Sau đó, vua Bảo Đại đọc tuyên bố thoái vị. Trên kỳ đài, cùng với bản nhạc Tiến quân ca hùng tráng, cờ đỏ sao vàng từ từ kéo lên. Bảo Đại trao cho trưởng đoàn Trần Huy Liệu “chiếc kiếm dài nạm ngọc và sau đó là chiếc ấn vàng hình vuông” [24], trong tiếng hô vang rền của nhân dân “Việt Nam độc lập muôn năm”, đánh dấu sự cáo chung của chế độ phong kiến.

Thắng lợi rực rỡ của cuộc Cách mạng tháng Tám ở Thừa Thiên Huế là quả tổng hợp của nhiều nhân tố, trong đó vai trò quyết định là sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng. Đảng bộ tỉnh đã quán triệt và vận dụng sáng tạo đường lối của Trung ương vào hoàn cảnh cụ thể của địa phương, đề ra chủ trương đúng đắn, phù hợp và tổ chức thực hiện năng động, nhạy bén. Vì vậy, đã phát huy được sức mạnh tổng hợp của khối đoàn kết toàn dân, thực hiện mục tiêu chung là đánh đổ đế quốc, giành chính quyền về tay nhân dân. Trong thành quả đó có vai trò quan trọng của nông dân và tổ chức Nông dân cứu quốc.

Ngay từ khi mới thành lập, Đảng bộ đã cử một đồng chí uỷ viên Ban Chấp hành trực tiếp phụ trách công tác nông vận, tuyên truyền chủ trương “Độc lập dân tộc và người cày có ruộng” của Trung ương Đảng để động viên, cổ vũ và tập hợp nông dân. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nông dân được tổ chức, tập hợp, tạo thành sức mạnh to lớn, đấu tranh bằng nhiều hình thức phong phú. Trải qua các phong trào cách mạng 1930 - 1931, 1936 - 1939 và 1939 - 1945, nông dân luôn là lực lượng đông đảo chống ách áp bức bóc lột của thực dân phong kiến.

Mười lăm năm đấu tranh dưới sự lãnh đạo của Đảng, phong trào nông dân thực sự có chuyển biến rõ rệt cả về nội dung, mục tiêu, phương pháp và hình thức. Phong trào phát triển rộng khắp trong toàn tỉnh, từ miền biển Phú Vang, Quảng Điền, về đồng bằng Hương Trà, Hương Thủy, thành phố Huế và lên cả vùng núi xa xôi hẻo lánh thuộc miền tây Phú Lộc, Phong Điền. Trên cơ sở phong trào ngày càng phát triển, tổ chức hội nông dân với nhiều tên gọi khác nhau ra đời. Hoạt động của các tổ chức hội ghi dấu bước trưởng thành của phong trào nông dân trong tỉnh. Đỉnh cao của phong trào đấu tranh thời kỳ 1930 - 1945 với hoạt động sôi nổi, phong phú của tổ chức Hội Nông dân cứu quốc là cuộc khởi nghĩa giành chính quyền thắng lợi trong Cách mạng tháng Tám.

Cuộc Cách mạng tháng Tám thành công đánh dấu bước ngoặt lịch sử trọng đại của dân tộc. Lần đầu tiên trong lịch sử, giai cấp nông dân từ địa vị nô lệ, làm thuê trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nông dân Thừa Thiên Huế phấn khởi bước vào công cuộc xây dựng cuộc sống mới.


 

.

Các tin khác
Xem tin theo ngày  
Thống kê truy cập
Truy cập tổng 5.793.470
Truy cập hiện tại 330