Tìm kiếm tin tức
Liên kết website
Tỉnh ủy, UBND tỉnh
Sở, ban, ngành
UBND huyện, thị xã
Hội Nông dân Việt Nam
CHƯƠNG I
Ngày cập nhật 30/06/2009

 NÔNG DÂN THỪA THIÊN HUẾ TRONG LỊCH SỬ

   (TRƯỚC KHI ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI)

 

I. VÙNG ĐẤT VÀ CON NGƯỜI THỪA THIÊN HUẾ TRƯỚC NĂM 1306

                               Các nhà khảo cổ học đã phát hiện được khá nhiều dấu tích văn hóa thời tiền sử trên đất Thừa Thiên Huế. Đó là những chiếc rìu, bôn đá tìm thấy ở các xã Hồng Thủy, Hồng Vân, Bắc Sơn, Hồng Bắc và Hồng Hạ (A Lưới), Lộc An và Lộc Thủy (Phú Lộc), Hương Chữ (Hương Trà) và Phong Thu (Phong Điền). Sưu tập công cụ rìu, bôn đá nói trên có niên đại cách ngày nay từ 3.500 năm đến 4.000 năm.

Bấy giờ, một bộ phận cư dân nguyên thủy trên đất Thừa Thiên Huế tiếp tục ở lại địa bàn cũ ở vùng thung lũng, chân núi, bìa rừng, một bộ phận lớn khác dần dần lan tỏa xuống khai phá vùng đồng bằng trước núi, ven sông. Do nhu cầu của việc khai phá đất hoang và sản xuất nông nghiệp mà công cụ lao động không ngừng được cải tiến, bổ sung. Bên cạnh công cụ đá, lúc bấy giờ cư dân ở đây còn dùng xương thú và tre, gỗ để chế tác công cụ. Nhờ có sự tham gia của các công cụ tiến bộ mà việc sản xuất không ngừng phát triển. Bên cạnh cây lúa, họ còn trồng các cây lấy củ, cây ăn quả và rau dưa, bầu, bí v.v.. Trên cơ sở đó, nền nông nghiệp sơ khai đã tiến dần lên nền nông nghiệp trồng lúa nước và hình thành nên những xóm làng tiểu nông. Người nông dân từng bước cải biến những vùng đất hoang thành ruộng lúa, nương khoai từ miền núi, thung lũng đến gò đồi và đồng bằng ven sông, ven biển.

Tiến lên một bước, dân cư Thừa Thiên Huế thời kim khí đã có một cuộc sống nông nghiệp định cư lâu dài. Công cụ lao động chủ yếu được chế tạo bằng sắt với các loại rìu, cuốc, cày, liềm, dao, thuổng... Nhờ thế mà năng suất trong nông nghiệp được tăng lên. Đời sống vật chất và tinh thần của con người thuở ấy được cải thiện và phong phú hơn.

Đến những năm đầu công nguyên, vùng đất Thừa Thiên Huế là một phần của quận Nhật Nam, quận ở cực nam của bộ Giao Chỉ lệ thuộc các triều đại phong kiến Trung Quốc. Trong hai thế kỷ đầu công nguyên, nhân dân quận Nhật Nam đã nhiều lần nổi dậy trong các năm 39-43, 100, 137-138, 144, 155, tạo điều kiện thuận lợi để người dân huyện Tượng Lâm - huyện ở cực nam của quận Nhật Nam (nay thuộc Quảng Nam) đánh đuổi quan binh đô hộ, hình thành nước Lâm Ấp, tiền thân của vương quốc Chăm Pa vào khoảng năm 190-193.

Năm 248, khi nổ ra cuộc khởi nghĩa của Bà Triệu chống quân Ngô, Lâm Ấp đã đưa quân tiến đánh huyện Thọ Lãnh, và nước Lâm Ấp về phía bắc đã ra đến sông Gianh (Quảng Bình). Nhiều thế kỷ sau đó, tuy có lúc xảy ra chiến tranh nhưng tình hình chung là vùng đất Thừa Thiên Huế trong lòng vương quốc Chăm Pa có điều kiện phát triển cả về kinh tế và văn hóa. Đến năm 1069, vùng đất từ sông Gianh vào đến Cửa Việt thuộc về Đại Việt, Thừa Thiên Huế và một phần của Quảng Trị trở thành vùng cực bắc của Chăm Pa. Khoảng thời gian sau đó, tuy còn phải trải qua một quá trình tranh chấp dai dẳng giữa Chăm Pa và Đại Việt, nhưng kể từ năm 1306, vùng đất nay là Thừa Thiên Huế đã trở thành một bộ phận của nước Đại Việt.

II. NÔNG DÂN THỪA THIÊN HUẾ TỪ NĂM 1306 ĐẾN TRƯỚC NGÀY THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

1. Nông dân Thừa Thiên Huế dưới thời phong kiến

Mùa hè 1306, vua Chiêm Thành là Chế Mân xin dâng châu Ô và châu Lý để làm lễ vật dẫn cưới công chúa Huyền Trân, một dải đất từ bờ nam sông Thạch Hãn đến bờ bắc sông Thu Bồn được sáp nhập vào lãnh thổ nước Đại Việt một cách hoà bình. Qua đầu năm 1307, vua Trần cử Hành khiển Đoàn Nhữ Hài vào vùng đất mới này tuyên dương đức ý của triều đình, đổi tên châu Ô làm châu Thuận, châu Lý làm châu Hóa với ý nghĩa biến đổi bằng giáo hóa một cách thuận hòa. Đoàn Nhữ Hài đã chọn cử người địa phương làm quan cai trị, chia cấp ruộng đất và tha tô thuế cho dân 3 năm.

Buổi đầu cư dân Chiêm Thành vẫn là lực lượng chủ yếu sinh sống tại đây. Họ sống rải rác ở vùng đồng bằng sông Ô Lâu, sông Bồ, sông Hương, vùng đầm phá và ven biển, thành thạo nghề nông với các giống lúa Chiêm thích nghi chất đất chua mặn. Ở các đầu nguồn và thung lũng phía tây là cư dân Pa Kô, Tà Ôi, Kơ Tu chuyên về nương rẫy và săn bắt, thu hái sản phẩm của núi rừng.

Quá trình nhập cư của người Việt tại vùng đất mới Hóa châu diễn ra rải rác trong thế kỷ XIV trong tình trạng cộng cư với dân Chiêm Thành bản địa, và đến cuối thế kỷ, triều đình nhà Trần đã thành lập tại đây 7 huyện là Trà Kệ, Lợi Bồng, Sạ Lệnh, Tư Dung, Bồ Đài, Bồ Lãng và Thế Vinh với khoảng 40 làng, ấp, thôn, trại, sách.

Trên 7 huyện dân cư còn thưa thớt và đất hoang vẫn nhiều hơn đất canh tác, và cuộc sống người dân trở nên khó khăn hơn bởi cuộc chiến giành giật đất đai do các vị vua Chiêm sau Chế Mân phát động. Cho đến năm 1391, khi vua Trần Thuận Tông cử Lê Quý Ly đi tuần châu Hóa, xét định quân ngũ, sửa chữa thành trì, vùng đất này mới ổn định. Vào năm 1402, Hồ Hán Thương cho sửa chữa đường thiên lý từ Tây Đô (Thanh Hóa) đến châu Hóa, việc di dân từ phía bắc vào Hóa châu lại tiếp tục, nhưng sau đó trong quá trình xâm lược nước ta, vào năm 1413 giặc Minh đã chiếm được Hóa châu, một ách đô hộ khắc nghiệt được áp đặt lên toàn cõi Đại Việt. Chúng đặt ra đủ loại sắc thuế nhằm vơ vét tài sản của nhân dân. Riêng về tô thuế ruộng đất, chúng nâng lên gấp 3 lần, do định 3 sào thành 1 mẫu. Xóm làng suy kiệt cả về nhân lực lẫn vật lực. Hai châu Thuận, Hóa bị sáp nhập làm một châu Thụân Hóa, gồm 79 làng, 1.470 hộ và 5.662 khẩu dân đinh.

Trong hoàn cảnh đó, nhân dân Hóa châu đã tích cực hưởng ứng khởi nghĩa Lam Sơn, giải phóng quê hương (1425). Bình Định Vương Lê Lợi trong bài dụ tướng sĩ, quân lính Tân Bình, Thuận Hóa đã chỉ rõ:

“Giặc Minh vô đạo, trái mệnh trời, hung hăng hiếu chiến, hòng mở rộng mãi đất đai, khiến cho sinh dân lầm than đã hơn hai chục năm rồi. Ngay ở kinh lộ của ta cũng chưa thấy có ai dốc lòng hết sức, lập công nêu danh mà bọn các ngươi là bề tôi ở chốn phên giậu biên cương lại biết nghĩ tới công sức của ông cha ngày trước, hết lòng với vua mà đánh giặc, lập công trước. Lòng trung thành đó, thực đáng ngợi khen” [1].

Sau khi lên ngôi năm 1428, vua Lê Thái Tổ đã cử các trọng thần vào trấn thủ châu Hóa với nhiệm vụ bảo vệ vùng đất phía nam, ổn định đời sống nhân dân, tăng cường việc di dân khai hoang và thành lập làng xã mới. Có thể xác định những làng được thành lập vào đầu thế kỷ XV như Đa Cảm (nay là Mỹ Xuyên, Phong Điền), Thanh Cần (Quảng Vinh, Quảng Điền), Triều Sơn (nay nằm trên địa bàn các xã Hương Sơ, Hương Vinh, Hương Toàn thuộc huyện Hương Trà)...

Tháng 5-1469, vua Lê Thánh Tông định bản đồ các thừa tuyên trong cả nước. Thừa tuyên Thuận Hóa được tổ chức thành phủ Tân Bình và phủ Triệu Phong. Phần đất Thừa Thiên Huế ngày nay thuộc 3 huyện Kim Trà, Đan Điền và Tư Vinh nằm trong phủ Triệu Phong.

Sau chuyến chuyến bình định phương nam thắng lợi của vua Lê Thánh Tông (tháng 2-1471), hưởng ứng chủ trương di dân của triều đình, một số quan quân nam chinh trở về đã đem gia đình và bà con từ các vùng quê phía bắc mà đa số là Thanh Hóa, Nghệ An vào khai khẩn đất đai, lập thành những làng ấp mới. Theo Hồng Đức bản đồ soạn năm 1490, 3 huyện thuộc phần đất Thừa Thiên ngày nay gồm có: Kim Trà (22 làng, 20 thôn, 3 nguồn), Đan Điền (60 làng, 14 thôn, 4 sách, 1 nguồn) và Tư Vinh (69 làng, 1 thôn, 4 sách).

Làng mạc tăng trưởng, ruộng đồng mở mang, nhà cửa tài sản của dân được gầy dựng và bảo vệ. Một sức sống mới đã nảy nở trên chặng đường tiến lên phía trước của châu Hóa.

Năm 1527, Mạc Đăng Dung cướp ngôi vua Lê, kéo theo hàng loạt biến động khắp cả nước. Một số gia tộc từ phía bắc lại di cư vào châu Hóa lập nghiệp. Đến năm 1533, khi Lê Trang Tông mở đầu sự nghiệp trung hưng, ở Hóa châu đã có khoảng 180 làng và 50 thôn, sách, nguồn, tập trung ở vùng trung lưu và hạ lưu các sông Bồ, sông Hương, sông Phù Bài, sông Nong, sông Truồi, sông La Ỷ và ven đầm phá cũng như dọc theo đồi cát ven biển. Dân cư đại đa số làm ruộng mỗi năm 2 vụ (hè và thu). Ngoài ra, hầu như làng nông nghiệp nào cũng có nghề đánh cá ở sông, đầm, bàu, ruộng. Hệ đầm phá Tam Giang - Cầu Hai gồm hơn hai vạn hecta là một ngư trường tôm cá nước lợ thuận lợi cho dân ven bờ đánh bắt thủy sản. Rải rác năm, ba làng thường có một chợ nhỏ để nông dân bán hàng tự sản, tự tiêu, chưa có hoạt động mua bán tấp nập, chỉ trừ một vài chợ lớn như chợ Thế Lại, Lại Thị, Địa Linh, Tây Thành, Đan Lương, Phò Trạch, Lại Ân. Hầu hết là những chợ dọc theo ven sông, lợi dụng đường sông làm phương tiện chuyên chở. Nhìn chung nhịp sống của nhân dân bình lặng, đơn sơ và đạm bạc.

Dương Văn An trong tác phẩm Ô châu cận lục viết năm 1555 đã viết về vùng đất Thuận Hóa: “Đồng bằng làm ruộng nuôi tằm, miền biển làm nghề mắm muối. Tôm cá đánh ở biển, hồ, không đâu không có. Gỗ củi lấy ở núi rừng, tùy nhà dùng đủ. Xóm làng đông đúc, tiếng gà gáy chó sủa cùng nghe. Cỏ nước đầy đủ, bầy trâu chăn thả khắp đồng. Trồng lúa thì vụ hè thường nhiều, vụ thu vẫn ít. Trong ruộng công còn có ruộng khẩn riêng, ngoài thuế ruộng còn nhiều thuế khác. Xuân sang mở hội đua bơi, lụa là chen chúc. Hạ tới mở tiệc tàng quy, ca múa tưng bừng. Tháng tư, tháng năm, dưỡng lúa ngoài ruộng, quá kỳ vẫn chưa thu hoạch. Tháng sáu, tháng bảy thả trâu giữa đồng, trải cả tuần không chăn dắt. Mua bán thì tùy nơi đong lấy, tuy ba hộc lúa vẫn chẳng quá hai tiền. Gà gáy lần ba, người người đi chợ. Mới đầu canh năm nơi nơi ra đồng. Cày thì kết cả đôi trâu, mà cái cày đặt giữa. Bừa thì có dáng cái giường, mà người đứng ở trên. Nhà tuy có nhiều thóc lúa, trong túi cũng không chút bạc vàng” [2].

Đáng quý nhất là đông đảo nhân dân, lúc bình thường thì sống chất phác, thuận hòa, vui với cuộc sống nông nghiệp bình dị, nhưng lúc có biến cố thì anh dũng, kiên cường, quyết hy sinh vì nghĩa lớn. Họ là những thế hệ tiên phong trong xu thế mở cõi về phương nam, đã nỗ lực không ngừng làm chuyển biến vùng đất biên cương trở thành làng mạc, đồng ruộng thanh bình. Đó là những nhân tố thuận lợi cho Nguyễn Hoàng năm 1558 vào trấn thủ xứ Thuận Hóa có điều kiện để phát triển dân sinh, củng cố thế lực, đưa vùng đất này tiến lên một giai đoạn phát triển mới.

Tháng 11-1558, Nguyễn Hoàng được lệnh vào trấn thủ Thuận Hóa. Nhân dân các làng mạc ở huyện Tống Sơn (Thanh Hóa) cùng một số quan lại, binh lính ở hai tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An đã đi theo Nguyễn Hoàng lập nghiệp ở vùng đất mới. Thừa Thiên Huế - Thuận Hóa trở thành đất dựng nghiệp của họ Nguyễn.

Công cuộc khai thác Thuận Hóa một cách quy mô được khẩn trương xúc tiến. Quân dân Thanh Hóa, Nghệ An theo phò Nguyễn Hoàng cũng như đông đảo dân nghèo ở phía bắc tự di cư vào Thuận Hóa từ nửa sau thế kỷ XVI cộng với lực lượng dân cư tại chỗ đã trở thành lực lượng quan trọng để thực hiện chính sách khai hoang lập làng và làm nòng cốt trong xây dựng quân đội, chính quyền ở vùng đất mới.

Nhân dân được chia thành từng đoàn, được cấp lương thực và nông cụ, cho đi các nơi khai phá đất hoang, lập thành những làng ấp mới. Theo quy định, ruộng đất khai khẩn đặt thành ruộng đất công của làng ấp mới thành lập và dưới quyền sở hữu tối cao của chúa Nguyễn. Hiện tượng tách lập làng mới trên cơ sở làng cũ diễn ra khá phổ biến tại vùng đồng bằng, gò đồi, ven biển và đầm phá.

So với thời Lê - Mạc, diện tích ruộng đất và số lượng làng xã tăng lên khá nhanh. Lê Quý Đôn trong tác phẩm Ô châu cận lục cho biết xứ Thuận Hoá vào nửa sau thế kỷ XVIII có 2 phủ, 8 huyện, 1 châu với 882 xã, thôn, phường, giáp với 126. 857 người và 153.181 mẫu ruộng. Thừa Thiên Huế bấy giờ là ba huyện Hương Trà, Phú Vang và Quảng Điền thuộc phủ Triệu Phong có 23 tổng, 234 xã, 23 thôn, 77 phường, 1 giáp, 1 châu và 3 sách.

Từ nửa sau thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, kinh tế nông nghiệp Thừa Thiên Huế phát triển khá nhanh. Đầu thế kỷ XVII, giáo sĩ Bori vào đây đã nhận xét: “đất đai màu mỡ và sinh lợi... hàng năm họ gặt lúa 3 lần”, và Lê Quý Đôn cũng cho biết, trên các cánh đồng Đàng Trong nhân dân đã cấy đến 26 giống lúa nếp và 23 giống lúa tẻ, nhiều loại lúa cấy được ở ruộng nước ngọt lẫn ruộng nước mặn; riêng “xứ Thuận Hóa có nhiều ruộng mùa hạ, ít ruộng mùa thu; lúa mùa hạ gọi lúa mùa chính (mùa mùa), lúa mùa thu gọi là lúa mùa trái” [3].

Năm 1669, sau khi đo đạc ruộng đất, chúa Nguyễn chính thức ban hành phép thu thuế. Ruộng công, ruộng tư đều được chia làm ba hạng, đánh thuế ngang nhau: mỗi mẫu ruộng hạng nhất nộp 40 thăng thóc (1 thăng = 20 lít), ruộng hạng nhì 30 thăng thóc và ruộng hạng ba 20 thăng thóc. Ruộng mùa thu và đất khô thì không chia hạng, mỗi mẫu nộp 3 tiền.

Tháng 4 năm Bính Thân (1716), chúa Nguyễn Phúc Chu sai quan huyện sức cho các tổng, xã kê khai số mẫu, sào, thước, tấc ruộng đất công tư, ruộng chùa, đất bãi, quan điền trang, quan đồn điền, ruộng tư các họ, bỏ hoang chưa khẩn... Tính cả một xứ Thuận Hóa, thực ruộng được 153.181 mẫu 1 sào 5 thước 3 tấc. Riêng ở 3 huyện nay là Thừa Thiên Huế thì cụ thể như sau:

Huyện Hương Trà, ruộng đất cộng 33.287 mẫu 12 thước 4 tấc, trong đó trừ bỏ hoang, rừng núi, cồn gò, tha ma 13.845 mẫu 5 sào 8 thước 8 tấc, thực còn ruộng đất 19.442 mẫu 1 sào 3 thước 6 tấc.

Huyện Quảng Điền, ruộng đất cộng 14.020 mẫu 4 sào 4 thước 1 tấc, trong đó trừ bỏ hoang, tha ma, ruộng khô, đầm hồ 3.600 mẫu 8 sào 3 thước 3 tấc, thực còn ruộng đất 10.419 mẫu 6 sào 8 tấc.

Huyện Phú Vang, ruộng đất cộng 39.574 mẫu 6 sào 4 thước 6 tấc, trong đó trừ bỏ hoang, tha ma 11.540 mẫu 4 sào 4 thước 8 tấc 1 phân, thực còn ruộng đất 28.034 mẫu 2 sào 7 tấc 9 phân [4].

Kinh tế nông nghiệp vùng Thuận Hoá phát triển nhanh, chính sách thuế khoá buổi đầu còn tương đối nhẹ nhàng nên đời sống nhân dân được đảm bảo. “Chợ không bán hai giá, người không ai trộm cướp, cửa ngoài không phải đóng”. Đó là do chính sách cai trị nới sức dân của Nguyễn Hoàng và các đời chúa Nguyễn kế vị đã thực hiện. 

Từ năm 1765, khi quyền hành thực tế rơi vào tay Trương Phúc Loan, kẻ “bán quan, buôn ngục, hình phạt và thuế má nặng nề” thì mâu thuẫn xã hội trở nên gay gắt, cảnh thanh bình không còn nữa. Lê Quý Đôn cho biết riêng việc thuế khóa thì “pháp lệnh rất phiền, nhân viên thu thúc rất nhiều, nên dân cùng nhà nghèo thường khổ vì nộp gấp bội, mà trong thì ty lại, ngoài thì quan bản đường, bớt xén không thể kiểm xét được” [5].

Năm 1771, khởi nghĩa Tây Sơn bùng nổ ở đất Quy Nhơn. Dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ, nghĩa quân Tây Sơn đã nhanh chóng phát triển, chiếm cứ gần một nửa đất Đàng Trong và cô lập Thuận Hoá. Năm 1774, quân Trịnh vượt sông Gianh và ngày 30-1-1775, chiếm Đô thành Phú Xuân. Chúa Nguyễn Phúc Thuần cùng thân binh vượt biển vào Gia Định. Việp quận công Hoàng Ngũ Phúc được kiêm lĩnh chức Trấn thủ xứ Thuận Hoá, bắt đầu thực hiện chính sách để bình ổn tình hình như “chở thóc gạo đi đường biển và đường kênh để cấp lương cho quân, cấm đoán cướp bóc, khoan miễn tô thuế, xét hỏi tật khổ, tìm dùng người giỏi, tạm lấy người Thuận Hoá làm huyện lệnh”, thế nhưng họ Trịnh vẫn không cải thiện được tình hình ở Phú Xuân bấy giờ. Đời sống của các tầng lớp nhân dân cơ cực, kinh tế nông nghiệp sa sút. Mọi người dân đều hướng về phong trào Tây Sơn với hy vọng sẽ thay đổi số phận của mình.

Sau khi quân Tây Sơn chiếm Phú Xuân ngày 20-6-1786, nhân dân Thuận Hóa đã phấn khởi đem hết sức mình xây dựng quê hương trong giai đoạn mới, trước hết là tham gia quân đội “áo vải cờ đào” để lật đổ chính quyền phong kiến đã mục nát ở Bắc Hà và đập tan cuộc chiến tranh xâm lược của nhà Thanh. Ngày 22-12-1788, Nguyễn Huệ tổ chức lễ Tế Trời tại núi Bân, công bố chiếu lên ngôi, lấy niên hiệu là Quang Trung, điểm binh và tiến ra bắc. Chỉ 40 ngày sau, Quang Trung đã oanh liệt đại phá quân Thanh, bảo vệ nền độc lập dân tộc.

Nhà Tây Sơn trải qua hai triều Quang Trung và Cảnh Thịnh, nhưng hầu hết các chính sách xây dựng đất nước đều do vua Quang Trung vạch ra và tổ chức thực hiện.

Chính sách kinh tế của nhà Tây Sơn vẫn xây dựng trên căn bản “trọng nông”. Ngô Thì Nhậm (1746-1803) đã thay mặt hoàng đế viết Khuyến nông chiếu, nêu rõ: “những ruộng công tư trót đã bỏ hoang, dân lưu tán phải trở về nhận lấy để cày cấy, không được để hoang, khiến cho những người thực cày cấy ruộng khác phải chịu thuế khống. Các sắc mục, xã trưởng, thôn trưởng phải xét số đinh hiện có bao nhiêu suất, số điền hiện có bao nhiêu mẫu, ruộng hoang mới khai khẩn bao nhiêu mẫu, hạn trung tuần tháng chín phải làm sổ xếp loại, đem nộp cho các quan; các viên này chuyển đệ lên, đợi quan Khâm sai xét thực, sẽ châm chước mà đánh thuế cho công bằng. Xã nào có ruộng bỏ hoang đã lâu mà không ai nhận, nếu là ruộng công, thì trách cứ vào các viên chức sắc, các chủ hộ xã ấy, phải chiếu nguyên ngạch thuế ruộng mà nộp gấp đôi; nếu là ruộng tư thì sung công, ngạch thuế cũng như ruộng công” [6].

Thời Tây Sơn, ngoài thuế, người nông dân không phải đóng thêm một khoản nào nữa nên dốc sức làm ăn, lại nhờ công cuộc chiêu tập dân lưu tán, đẩy mạnh việc khai hoang phục hóa mà xã hội dần dần ổn định, đời sống nhân dân dần dần được cải thiện.

Năm 1792, vua Quang Trung mất, nhà Tây Sơn lâm vào suy yếu. Không lâu sau, ngày 31-5-1802, Nguyễn Phúc Ánh lập đàn tế cáo trời đất ở cánh đồng làng An Ninh về việc đặt niên hiệu Gia Long, mở đầu triều Nguyễn. Ngày 15-7-1802, vua Gia Long chiếm được Thăng Long nhưng vẫn quyết định lấy Phú Xuân làm Kinh đô cuả nước Việt Nam. Theo cách nhìn của vua quan triều Nguyễn, Phú Xuân là “nơi miền núi, miền biển đều họp về, đứng giữa miền nam miền bắc, đất đai cao ráo, non sông phẳng lặng; đường thủy thì có cửa Thuận An, cửa Tư Hiền sâu hiểm; đường bộ thì có Hoành Sơn, ải Hải Vân chặn ngăn; sông lớn ngăn phía trước, núi cao giữ phía sau, rồng cuốn hổ ngồi, hình thế vững chãi.

Kiến trúc Kinh thành Huế là sự kết hợp chặt chẽ giữa kiến trúc và thiên nhiên. Đây là trí tuệ và công sức của cả dân tộc Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ XIX. Hàng vạn người lao động và thợ thủ công đã được điều từ nhiều nơi đến Huế trong năm 1805 để xây đắp Kinh thành, trong đó đông nhất là người địa phương (4.421 người).

Năm 1831, vua Minh Mạng chia đặt từ Quảng Trị ra bắc thành 18 tỉnh, qua năm 1832 tiếp tục chia đặt từ Quảng Nam vào nam thành 12 tỉnh. Cả nước bấy giờ có 30 tỉnh và phủ Thừa Thiên. Đầu năm 1835, triều đình đặt thêm 3 huyện ở phủ Thừa Thiên là Phong Điền, Hương Thuỷ và Phú Lộc. Như vậy, đến thời điểm đó, phủ Thừa Thiên có tất cả 6 huyện, kể từ phía bắc vào là: Phong Điền, Quảng Điền, Hương Trà, Phú Vang, Hương Thuỷ và Phú Lộc.

Theo Đại Nam nhất thống chí được biên soạn dưới thời Tự Đức, huyện Phong Điền có 5 tổng, 40 xã, thôn; huyện Quảng Điền có 5 tổng, 58 xã, thôn; huyện Hương Trà có 6 tổng, 98 xã, thôn; huyện Phú Vang có 6 tổng, 90 xã, thôn; huyện Hương Thủy có 5 tổng, 58 xã, thôn và huyện Phú Lộc có 4 tổng, 87 xã, thôn. Sáu huyện có tất cả 31 tổng, gồm 431 xã, thôn, phường, ấp, giáp. Dân đinh ở Thừa Thiên có 68.540 người, ruộng đất trong toàn phủ là 126.150 mẫu.

Trong phạm vi mỗi làng xã, đất đai được chia thành hai loại:

Công điền (ruộng làng) và công thổ (đất thổ trạch, tức là đất chiếm cứ bởi nhà cửa và các loại đất dùng để trồng những loại cây khác cây lúa). Ruộng đất này triều đình giao cho xã thôn sử dụng, là của công, xã thôn không được phép bán đi [7]. Phần lớn công điền công thổ thuộc vào hạng khẩu phân điền, theo định kỳ 3 năm một lần chiếu sổ đinh trong làng mà phân cấp cho dân. Sự phân cấp này được thực hiện bởi các hương chức, chiếu theo sổ đinh của làng, theo thứ tự ngôi thứ. Tất cả mọi dân đinh trong xã, từ quan viên cho đến các hạng thấp nhất của bậc thang xã hội đều được chia ruộng đất [8].

Tư điền tư thổ là đất riêng của tư nhân, do tư nhân trồng cấy và nộp thuế. Đất đai này có thể được truyền lại cho con cháu, có thể đem mua bán, cầm cố.

Về thuế ruộng, vua Minh Mạng chia cả nước ra làm 3 khu vực, trong đó khu vực I gồm các tỉnh từ Quảng Bình đến Khánh Hòa với mức thuế công điền, tư điền như nhau: hạng nhất 40 thăng thóc/mẫu, hạng nhì 30 thăng thóc/mẫu và hạng ba 20 thăng thóc/mẫu.

Thuế ruộng đất phải nộp bằng hiện vật, nhưng triều đình cũng cho phép nộp tiền thay thóc lúa vào những trường hợp như vận chuyển khó khăn và lâu, hay mất mùa không đủ thóc [9].

Giá gạo biến đổi rất nhiều từ năm này qua năm khác. Thường thường những lúc giao mùa là lúc nông dân gặp khó khăn, khi mà số gạo gặt được trong mùa trước đã tiêu thụ hết, và phải chờ đợi số thu hoạch của mùa vụ sắp tới; lúc này là lúc giá gạo lên cao. Nhưng nếu gặp thời tiết bất thường, giá gạo còn nhảy vọt cao thêm, có thể lên đến gấp rưỡi hay hơn nữa từ tháng này qua tháng sau.

Nông dân khốn khổ phải đi vay, và phải vay với một phân lãi rất cao. Suất lãi quá nặng chồng chất tháng này sang tháng khác, năm này qua năm khác, rút cục nông dân không những mất ruộng mà còn bắt buộc phải cày cấy ruộng của mình và hằng năm phải trả cho chủ nợ một khoảng địa tô.

Thừa Thiên Huế bao gồm cả Kinh đô nên thường được triều đình Huế chú ý an dân, phát triển các mặt để tạo chỗ đứng chân vững chắc cho vương triều. Ở đây các vua Nguyễn đã có những chính sách ưu đãi để phát triển nông nghiệp, như quân cấp khẩu phần lương điền cho quan quân, cấm mua bán ruộng đất công, ban hành phép quân điền, cho lập địa bạ, lập kho Thường bình, lập Sở Tịch điền, đặt Sở Diễn canh, lập Kho Bình thiếu, lập Sở Đồn điền và lập Đàn Tiên nông, giảm miễn thuế mỗi khi mất mùa để dân có điều kiện sản xuất.

Lễ Tịch điền là một trong những cuộc lễ quan trọng có liên quan đến quốc kế dân sinh dưới triều Nguyễn, qua đó nhằm khuyến khích nông dân chăm lo cày cấy. Khi ban chỉ dụ về việc xây dựng khu Tịch điền, vua Minh Mạng đã nói: đời vua xưa cày ruộng Tịch điền, để lấy gạo làm xôi tế Giao miếu, nhân thể để xét thời tiết làm ruộng khuyên giúp nông dân, thực là việc lớn trong vương chính. Hàng năm cứ đến mùa hạ vào tháng thứ hai thì tiến hành lễ Tịch điền. Tại buổi lễ, nhà vua quay về hướng nam, nhận chiếc cày từ quan Bộ Lễ và nhận roi cày từ quan đứng đầu phủ Thừa Thiên, tay phải cầm cày, tay trái cầm roi, có bốn vị bô lão chức sắc phụ tá. Đi theo cày sau nhà vua có hoàng tử và quan Thượng thư Bộ Hộ mang thúng thóc vừa đi vừa vãi giống. Sau nhà vua, các hoàng thân và quan chức tiếp tục cày. Đến khi lúa chín, quan phủ Thừa Thiên trông coi việc gặt hái cùng với một viên quan Bộ Hộ lựa chọn hạt giống tốt để chuẩn bị cho lễ Tịch điền năm sau, số lúa thu hoạch được dùng cho các lễ tế.

Nhà nước còn coi trọng việc xây dựng các công trình thuỷ lợi, đắp đập ngăn mặn, đào kênh, khơi vét sông hói. Năm 1808, Gia Long đích thân xem xét việc đào sông Dương Xuân. Năm 1814, Gia Long đến làng Thanh Thủy (Hương Thủy), thấy ruộng đất bị nhiễm mặn liền cho gọi bô lão đến hỏi việc đào sông. Có người tâu: “Đời xưa có ngòi lạch để phòng nắng lụt mà chứa lại hay tháo đi. Nay khai sông này, thực lợi cho nông dân lắm”, vua bèn quyết định cho đào sông dẫn nước ngọt về và làm thêm cửa đập Thần Phù để ngăn mặn. Lúc mới đào sông mang tên An Cựu, đến năm 1821, Minh Mạng đổi thành sông Lợi Nông để nhắc lại mục đích đào sông. Năm 1835, Minh Mạng cho đào sông Phổ Lợi (Phú Vang), từ sông Hương theo đường sông này đến cửa biển Thuận An là 25 dặm, so với đường cũ có thể bớt được 7-8 dặm. Sông được đào sâu, vừa có nước ngọt cho ruộng đồng, vừa tiện cho việc đi lại của thuyền bè.

Sách Đại Nam nhất thống chí đã cho biết nhiều kênh mương và đê đập được nạo vét và xây dựng dưới thời Gia Long và Minh Mạng, nhờ đó, diện tích canh tác được mở rộng và sản lượng tăng lên đáng kể. Dẫu vậy, cho đến nửa đầu thế kỷ XIX, công cụ chưa có những tiến bộ quan trọng và năng suất cây trồng vẫn còn thấp. Kỹ thuật sản xuất phổ biến là dùng trâu, bò để kéo cày bừa. Để đưa nước vào ruộng, nông dân dùng các nông cụ thô sơ, dùng gàu tát nước bằng tay hoặc xe đạp nước bằng chân.

Thừa Thiên Huế ở nửa đầu thế kỉ XIX là đất Kinh sư nên thường được triều đình ưu ái mỗi khi có hoạn nạn. Năm 1808, cư dân ở đây được giảm thuế vì gặp đại hạn. Năm 1816, nông dân được triều đình cho mượn thóc vì giá gạo lên cao. Cũng vào năm ấy, Thừa Thiên cùng một số tỉnh lân cận được giảm thuế thân và thuế ruộng 50%. Đến tháng 11 âm lịch năm đó, vào lúc giá gạo lên cao, vua Gia Long đã truyền phát lúa trong kho để bán cho dân. Năm 1833, vua Minh Mạng lệnh cho Phủ Doãn Thừa Thiên là Trần Tú Dĩnh: “Kinh sư là nơi thủ thiện, người biết hiếu nghĩa. Nhưng người giàu thường do các tai ương mà trục lợi”. Từ đó, việc đầu cơ gạo ở Thừa Thiên cũng bị hạn chế, giá gạo cũng giảm. Năm 1836, vua Minh Mạng lại ra lệnh thuê dân đào vét các dòng kênh để dân có công ăn việc làm và lệnh cho Phủ Doãn Thừa Thiên cho dân làm việc đúng với giờ quy định, không được làm quá sức, trong khi xây công trình nếu có phạm vào ruộng đất của dân đều phải đền bù v.v..

Đất Kinh sư mặc dù được ưu đãi hơn so với các địa phương khác nhưng đời sống của cư dân vẫn cơ cực, vẫn phải chịu gánh nặng của thuế má, phu phen. Sự phân hoá xã hội ngày càng sâu sắc cùng với việc hình thành tầng lớp quý tộc và tầng lớp bình dân, và trên đất Thừa Thiên Huế, người dân cảm nhận rõ rệt hơn sự đè nặng của trật tự, đẳng cấp phong kiến.

Lên nắm chính quyền, Gia Long bắt nhân dân trả lại cho chủ cũ ruộng đất mà trước đây phong trào Tây Sơn đã chia cho dân. Tô thuế quá nặng. Ruộng công mỗi mẫu nộp từ 20 đến 40 thăng (1 thăng = 2 lít). Người dân đến tuổi trưởng thành còn phải nộp thuế thân và đi lao dịch nặng nề. Trong khi vua chúa, quan lại sống xa hoa thì nhân dân lao động lại thường thiếu đói, nhất là vào những năm xảy ra thiên tai, dịch bệnh. Năm Giáp Thìn (1844), toàn tỉnh Thừa Thiên bị một trận bão lụt lớn. Hàng nghìn người bị nước và gió cuốn trôi. Nông dân chết đói khắp đầu đường xó chợ. Mâu thuẫn giữa nông dân với chế độ phong kiến ngày càng sâu sắc, dẫn đến sự bùng nổ của hàng trăm cuộc khởi nghĩa nông dân ngay từ thời vua Gia Long.

Năm 1805, người dân thiểu số nổi dậy đánh phá miền Tả Trạch, triều đình phải cử Thống chế Phan Văn Đức và Lưu thủ Nguyễn Công Hoà đi đàn áp. Sáu mươi người tham gia khởi nghĩa bị bắt, người cầm đầu bị giết chết, nhiều người tham gia khởi nghĩa bị lưu đày. Năm 1810, dân tộc ít người ở Thừa Thiên lại nổi dậy nhưng cũng bị triều đình đàn áp. Ngoài ra, triều Nguyễn còn đàn áp nhiều cuộc nổi dậy của nông dân, như cuộc đàn áp ở Hương Trà năm 1832.

Nhìn chung, xã hội Thừa Thiên Huế vào nửa đầu thế kỷ XIX tuy có nhiều biến đổi đi lên vì là vùng đất Kinh sư của nhà Nguyễn, nhưng vẫn bộc lộ những dấu hiệu bất ổn chung của xã hội Việt Nam trước nguy cơ bị thế lực phương Tây xâm lược.

Ngày 1-9-1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa thực dân ở Việt Nam. Nằm sát ở phía nam, sự chuẩn bị cho cuộc kháng chiến của nhân dân Thừa Thiên và triều đình Huế ngày càng tích cực và khẩn trương hơn.

Tháng 9-1858, triều đình Huế điều hai chiến thuyền và 150 lính về đóng giữ cửa Tư Hiền (Phú Lộc) để phòng giặc, còn ở cửa biển Thuận An (Phú Vang), triều đình Huế cho quân lấy xích sắt và dây sắt chắn ngang đề phòng quân Pháp tấn công Kinh đô Huế. Một loạt các lũy đất được xây đắp ở Hy Du, Lộ Châu, Hải Trình, Cồn Sơn, Hoà Duân v.v.. Đối với mặt đường bộ, ngoài Hải Vân Quan đã được tăng cường phòng bị, triều đình Huế cho đắp thêm đồn ở hệ thống ải Hải Vân để ngăn giặc Pháp, bảo vệ Kinh đô.

Trong khoảng thời gian này, kinh tế ở Thừa Thiên Huế cũng có những chuyển biến quan trọng. Từ năm 1860, do thực dân Pháp đánh chiếm miền Nam mà việc vận chuyển lúa gạo ra miền Trung gặp khó khăn, Thừa Thiên lại hay mất mùa, thiên tai liên tục xảy ra nên dân chúng thường bị đói kém. Trước tình hình đó, triều đình Huế đã lệnh cho các xã thôn trong phủ Thừa Thiên cứ 100 mẫu ruộng công trích lấy 10 mẫu, giao cho xã dân cày cấy, thu hoạch làm kho chứa riêng gọi là “Xã thương” để dành khi thiếu đem ra ban phát cho dân. Ngoài ra, công tác thủy lợi, khơi sông, đắp đập ngăn mặn được triều đình chú ý và tiến hành liên tục trong nhiều năm.

Tháng 2-1865, triều đình huy động hơn 600 người dân ở ba tổng Phú Ốc, An Ninh, Long Hồ (Hương Trà) để khơi con sông cũ An Vân, mỗi dân công hàng ngày được cấp một bát gạo và 40 đồng [10]. Tháng 3-1865, triều đình cho dân các xã An Lưu, Sư Lỗ khơi vét dòng sông từ An Lưu đến sông Lợi Nông để lấy nước tưới ruộng và tiện đường vận tải. Tháng 4-1867, việc khơi sông được tổ chức rầm rộ trong toàn phủ. Triều đình cho đào vét sông Hương từ phía ngoài đến cầu Gia Hội cùng các cửa cống ở Bao Vinh, vét sông Lợi Nông và sông Thuận Trực thuộc địa phận xã Nghi Giang (Phú Lộc). Đến tháng 10-1868, tại các xã An Phú (Hương Trà), Lương Điền (Phú Lộc) ruộng đất nhiều nhưng địa thế hơi trũng thấp, trước có dòng sông chảy qua nhưng đã bị lấp, triều đình Huế bèn chi 1.500 quan cho dân phu khai đào, lại đắp ụ đất, đặt cống để tùy lúc chứa nước hoặc tháo nước. Sau đó, triều đình Huế còn tổ chức khai đào vét đường sông huyện Hương Trà từ cửa biển Nham Biều đến xã Vân Cù, khai đường sông các xã Kim Đôi, Vân Trình (Phong Điền) thẳng ra sông Vĩnh Định (Quảng Trị), vét sông Lợi Nông ở hai giáp Thanh Thuỷ Chánh và Thanh Thuỷ Thượng (Hương Thủy), khơi đường sông ở các xã đoạn Thanh Hương để tưới tiêu, đắp lại bờ biển ở Vinh Hiền (Phú Lộc) để ngăn mặn v.v..

Nói chung, “công tác thủy lợi ở Thừa Thiên Huế rất được chú trọng, triều đình Huế phạt nặng các quan lại bê trễ gây ảnh hưởng xấu đến sản xuất nông nghiệp của nhân dân. Như vào tháng 8-1874, đường sông ở Bao Vinh, Kim Đôi nhiều chỗ nông cạn, triều đình Huế cho là quan địa phương không chịu thường xuyên xem xét khơi đào, nên hai viên Tri huyện Hương Trà và Hương Thủy đều bị giáng một cấp lưu lại làm việc, 3 viên quan ở phủ Thừa Thiên đều bị phạt 9 tháng lương” [11].

Việc khai hoang cũng được triều đình quan tâm. Tháng 5-1863, nhà vua cho phép Biện lý bộ Hình Trần Đình Túc mộ người khai khẩn ruộng bỏ hoang ở phủ Thừa Thiên và phong ông làm Doanh điền sứ phụ trách việc khai hoang. Đến tháng 4-1864, Trần Đình Túc cho mộ dân khai khẩn ruộng hoang ở địa phận xã Lương Điền (Phú Lộc). Mỗi suất đinh được vay trước 20 quan tiền, khai hoang xong 6 năm sau mới bắt đầu tính thuế. Các ấp mới nhờ khai hoang mà được thành lập là Quý Lộc, Mỹ Thuận, Lương Tri và Lương Sơn Tây. Tháng 7-1871, triều đình lệnh cho quan phủ Thừa Thiên xem xét những đất bồi ở bên sông, coi chỗ nào cày cấy được thì khuyến khích dân chúng khai khẩn cày cấy, người nào không đủ vốn thì cho vay tiền công để khai khẩn nhằm đem lại mối lợi chung. Ngoài ra, triều đình còn phổ biến cách thức chế xe nước bằng trâu kéo phỏng theo kiểu phương Tây để tưới ruộng bị hạn vào tháng 2-1865.

Những biện pháp nói trên tuy phần nào đã góp phần cải thiện đời sống của đại bộ phận cư dân là nông dân nhưng do phải liên tục gánh chịu nhiều thiên tai và dịch bệnh trầm trọng mà cuộc sống của họ phải lâm vào cảnh cơ cực.

Từ đầu năm 1858, dịch bệnh phát ra ở Thừa Thiên và một số tỉnh miền Trung, kéo dài đến gần giữa năm vẫn chưa chấm dứt khiến nhiều người dân bị chết, dân tình hoang mang sợ hãi. Trước tình cảnh ấy, triều đình Huế đã cho các vùng bị dịch được hoãn các thuế lệ và nghĩa vụ về ruộng đất. Qua năm 1859, bệnh dịch lại bùng phát, kéo từ tháng 4 đến tháng 8 âm lịch, thêm nhiều người dân bị chết. Đến năm 1862, ở Thừa Thiên Huế và Quảng Trị bị bệnh lệ khí kéo dài rất lâu, nhân dân nhiều người bị nhiễm nặng. Tính đến tháng 7-1863, triều đình đã cấp tiền tuất cho hơn 3.600 người chết vì bệnh lệ khí.

Cùng với dịch bệnh là thiên tai xảy ra dồn dập. Tháng 4-1859, mưa rét kéo dài làm tổn hại gần 50% diện tích lúa, chỉ có lúa trổ muộn vào lúc khí trời tạnh ráo mới không bị mất, làm cho giá gạo lên cao và nhiều người phải bỏ làng xiêu dạt đi nơi khác kiếm sống. Năm 1864, mới tháng hai âm lịch mà ở Thừa Thiên đã bị bão tràn vào, gây thiệt hại nặng nề về tài sản của nhân dân, và triều đình Huế đã tổ chức quyên góp được 4.481 hộc thóc (1 hộc = 60 lít), đồng thời trích ở kho thóc thêm 5.368 hộc, chiếu theo số dân bị nạn mà cấp phát hoặc cho vay. Đến tháng 9 âm lịch cùng năm, Thừa Thiên Huế lại bị gió bão mưa lụt rất lớn, nhà cửa đổ nát, dân chúng bị chết rất nhiều. Triều đình cử quan lại đi phát chẩn cho dân và cho những bần nông vay tiền và thóc (cứ mỗi mẫu ruộng được vay 1 quan tiền, một hộc thóc). Đầu năm 1865, nạn đói lại xuất hiện, nặng nhất là vùng núi và đồng bằng ven biển. Triều đình Huế đã lệnh cho quan phủ Thừa Thiên xuất 7.000 phương gạo trong kho (1 phương = 30 lít), đem cho các hộ dân nghèo đói vùng ven núi và ven biển vay tạm để qua cơn ngặt nghèo. Vào tháng 1-1868, nhiều xã thôn trong phủ bị bão lụt tàn phá mùa màng nên dân chúng nộp thiếu tiền thuế cả năm là 985 quan tiền, thiếu tiền vay của công là 1.860 quan. Phủ Thừa Thiên phải làm bản tấu trình lên bộ Công và triều đình Huế, cuối cùng dân thiếu tiền thuế ở Thừa Thiên được xét giảm bớt 50%.

Đã khổ sở vì thiên tai, dịch bệnh, nhân dân Thừa Thiên Huế còn phải gánh chịu sự nhũng nhiễu, áp bức của một số quan lại, hoàng thân nhà Nguyễn và tay chân của Sứ quán Pháp đóng tại bờ nam sông Hương. Chẳng hạn vào đầu năm 1871 triều đình Huế đã trừng trị hàng loạt các quan đứng đầu phủ Thừa Thiên vì tội danh gây xáo động dân chúng trong hạt, để xảy ra nhiều vụ trộm cướp, kiện tụng, thiếu sâu sát phong tục và đời sống của nhân dân, xảo trá, không chính trực.

Trong hoàn cảnh đó, làn sóng chống đối triều đình ngày càng dâng cao, tạo nên nhiều cuộc khởi nghĩa trong cả nước, và riêng ở Kinh đô là cuộc khởi nghĩa “Chày Vôi” (1866) bất thành.

Sau đó, trong ba ngày (từ 18-8 đến 20-8-1883), quân Pháp nổ súng tấn công Thuận An, chiếm Trấn Hải, Hoà Duân, Cồn Sơn và Hạp Châu. Vua Hiệp Hòa quyết định hòa nghị, ký với Pháp Hiệp ước Harmand ngày 25-8-1883, công nhận sự bảo hộ của Pháp trên toàn cõi Việt Nam và người Pháp có quyền kiểm soát về mặt ngoại giao của triều đình Huế. Từ đây, Việt Nam chính thức bị chia làm 3 kỳ với chế độ lệ thuộc khác nhau. Thừa Thiên thuộc Trung Kỳ là đất bảo trợ, do triều đình Huế trực tiếp cai trị.

Sau 4 tháng ở trên ngai vàng, vua Hiệp Hoà bị phế truất vì đi chệch đường lối giữ nước của những người chủ chiến và nguyện vọng của nhân dân. Ngày 2-12-1883, hoàng tử Ưng Đăng làm lễ lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Kiến Phúc. Bộ máy lãnh đạo triều đình Huế lại ngả về phía những người thuộc phái chủ chiến.  

Đến ngày 6-6-1884, đại diện triều đình Huế và Patenôtre ký hiệp ước gồm 19 khoản. Theo đó, nước Đại Nam chịu nhận sự bảo trợ của nước Pháp. Các tỉnh Bình Thuận, Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hoá được sáp nhập trở lại Trung Kỳ… Hiệp ước Patenôtre đánh dấu sự công nhận địa vị thống trị của thực dân Pháp tại Việt Nam và chủ quyền của triều đình Huế chuẩn bị mất vào tay thực dân Pháp.

Ngày 2-8-1884, Ưng Lịch lên ngôi Hoàng đế, lấy niên hiệu là Hàm Nghi. Người Pháp đã phản ứng quyết liệt sự việc trên và cuối cùng dẫn đến sự kiện phái chủ chiến trong triều đình Huế mở cuộc tấn công quân Pháp ở Kinh thành. Một giờ sáng ngày 5-7-1885 (23 tháng 5 năm Ất Dậu), quân triều đình bắt đầu tấn công và đến 9 giờ sáng thì quân Pháp làm chủ tình thế, Kinh thành bị thất thủ. Binh lính và dân chúng trong thành hoảng loạn tìm đường chạy trốn. Quân Pháp xông vào gặp ai giết nấy, đốt phá khắp nơi, tiếng kêu khóc vang trời dậy đất. Chúng tự do cướp giật, hãm hiếp, phá phách suốt 48 giờ. Toàn bộ kho tàng, báu vật trong cung điện bị chúng thu giữ. 

Từ ngày 18-8-1883 đến ngày 5-7-1885 là giai đoạn nhân dân Thừa Thiên Huế trực tiếp đối đầu với quân đội xâm lược Pháp ngay trên Kinh đô Huế. Tuy chỉ rất ngắn ngủi về mặt thời gian, song đây là giai đoạn kết thúc sự tồn vong của nền độc lập dân tộc nói chung, của Thừa Thiên Huế nói riêng vào cuối thế kỷ XIX.

Sự biến ngày 5-7-1885 (23-5 năm Ất Dậu) là bản hùng ca bi tráng mà cha ông ta viết lên trong quá khứ, mãi mãi đi vào lịch sử đấu tranh của mảnh đất Thừa Thiên Huế nói riêng, của dân tộc Việt Nam nói chung như là một cái mốc đau thương về nỗi hận mất nước. Vì thế mà cho đến hôm nay nhiều người dân Thừa Thiên Huế cũng như trong cả nước vẫn gọi đó là ngày “Quốc hận”, và lễ cúng “Âm hồn” diễn ra phổ biến ở Huế (từ ngày 23 đến cuối tháng 5 âm lịch hàng năm) vẫn còn lắng đọng âm hưởng của nỗi buồn mất nước ngày xưa [12].

2. Nông dân Thừa Thiên Huế dưới thời thực dân Pháp thống trị

Sáng ngày 7-5-1885, vua Hàm Nghi phải ra dần phía bắc. Hơn hai tháng sau, ngày 19-9-1885 thực dân Pháp đưa Đồng Khánh lên ngôi vua. Tháng 3-1886, vị vua bù nhìn này ra một đạo dụ và một bản cáo thị ca ngợi công lao của Pháp và lên án nhà vua yêu nước Hàm Nghi. Từ đây nhân dân Thừa Thiên Huế chịu sự thống trị hà khắc của thực dân Pháp và chính quyền phong kiến tay sai.

Ở thôn xã, việc điều hành tuy do quan lại Nam triều của phủ Thừa Thiên đảm trách, nhưng thực dân Pháp cũng tìm cách can thiệp. Ngày 19-12-1935, vua Bảo Đại ra đạo dụ về việc tổ chức cơ quan quản trị làng xã ở Trung Kỳ, quy định việc bầu lý trưởng và các chức sắc khác của làng xã trong khuôn khổ “cải lương hương chính” của Pháp.

Đồng bạc Đông Dương được lưu hành thay cho hệ thống tiền tệ cũ. Từ ngày 1-1-1899, tiền thuế từ Thanh Hóa trở vào Bình Thuận đều phải nộp bằng đồng bạc Đông Dương. Vừa chịu sưu cao thuế nặng, người nông dân Thừa Thiên còn phải chịu cảnh bất công trong quân cấp ruộng đất.

“Đại bộ phận ruộng đất trong vùng chúng tôi là ruộng đất công. Mặc dầu theo quy định từ xưa thì ruộng đất phải được chia đều cho dân trong từng xã. Nhưng những người có quyền thế ở nông thôn có cách chia đều mà lại rất có lợi cho họ. Đó là chia đều về diện tích, tốt theo tốt, xấu theo xấu. Những người có quyền thế có địa vị nhận phần trước, những người ít quyền thế hoặc không có quyền thế nhận sau và người nhận sau cùng là dân thường được gọi là bạch đinh. Cứ như vậy, bao nhiêu ruộng đất tốt, thuận lợi đều bị những người có quyền thế chọn hết, đến lượt dân thường, chỉ còn lại ruộng đất cằn cỗi. Giá cho thuê một phần ruộng của quan viên chức sắc lúc bấy giờ cao gấp hàng trăm lần phần ruộng đất của dân thường” [13].

Theo báo Tiếng Dân, vào năm 1916, “gặp lúc đói rét” [14], làng Vĩnh An (Phong Điền) buộc phải đem 7 mẫu 6 sào ruộng công cầm cố cho ấp Khúc Lý lấy 950 đồng để cứu tế cho dân. Cũng theo báo này, dân làng Phù Ninh cũng điêu đứng vì tình trạng “ruộng xấu thuế cao”: “Nguyên chúng tôi nghèo không có ruộng đất, trong làng có xứ Trằm Việt và xứ Chiền Chiện có đôi vạt đất hoang, xin làng canh tác làm ăn. Từ trước đến nay ai canh được ruộng trên núi, làng cũng chiếu lệ khai vào tứ hạng điền cả. Năm 1932, nhân việc làm địa bộ, làng cho chúng tôi đứng khai nghiệp chủ người một mẫu, kẻ năm ba sào. Nay phát trích lục, thấy ruộng của chúng tôi liệt vào nhì hạng. Ở miền núi ruộng xấu mà thuế cao, làm không đủ bồi thuế, nên không dám lãnh trích lục. Rất mong nhà nước xét lại”.

Bên cạnh việc nộp thuế quá cao cho địa chủ khi buộc phải làm rẽ vì thiếu ruộng (phải nộp đến 50% sản phẩm thu hoạch được), người nông dân còn phải chịu thêm cảnh đục khoét của một số lý trưởng cậy quyền cậy thế ức hiếp dân nghèo. Mười ba người làng Phú Nông năm 1936 ký tên và điểm chỉ vào đơn kiện gửi cấp trên vì lý trưởng làm trái phép, không cấp ruộng để canh tác nhưng vẫn bắt dân nộp thuế.

Từ sự bất công và cảnh sống cơ cực, nông dân Thừa Thiên đã nhiều lần vùng lên tranh đấu. Một số cường hào ở Phù Ninh và Đông Dạ do mua chuộc được nhân viên đạc điền đã chuyển ruộng công thành ruộng tư hoặc ruộng họ. Nhân dân trong làng đồng lòng làm đơn kêu kiện lên huyện, lên tỉnh và cả Toà Khâm. Sau gần 8 tháng kiên trì, cuộc đấu tranh chống chiếm ruộng đất công giành được thắng lợi, bọn cường hào phải trả lại ruộng cho làng.

Nông dân Thừa Thiên không chỉ kêu kiện lên trên mà còn tham gia tích cực các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp và chính quyền tay sai.

Sau khi Kinh thành Huế rơi vào tay quân Pháp, phái chủ chiến phò vua Hàm Nghi ra dần phía bắc, ngày 13-7-1885 tại Sơn phòng Quảng Trị, vị vua yêu nước ra dụ Cần Vương, làm bùng lên khắp cả nước nhiều cuộc khởi nghĩa chống Pháp do các văn thân, sĩ phu lãnh đạo.

Tại Thừa Thiên, tháng 8-1885, quan phủ thúc hối huyện Quảng Điền bắt dân đi lính cho triều đình bù nhìn. Dưới tác động từ lời kêu gọi Cần Vương của vua Hàm Nghi, Đặng Huy Cát đã phất cờ khởi nghĩa, nhanh chóng tập hợp các nghĩa sĩ ở hai huyện Hương Trà và Quảng Điền, rồi cùng cháu là Đặng Hữu Bác đem quân ngăn chặn việc bắt lính của triều đình, bắt giam luôn phái viên của huyện Quảng Điền.

Tiếp đó, con của Đặng Huy Cát là Đặng Hữu Phổ lại dẫn hơn 30 nghĩa quân tập kích vào huyện nha Quảng Điền đóng tại làng Hạ Lang (Quảng Điền), phá nhà ngục thả tất cả tù nhân bị giam ở đó, rồi truy bắt viên Bang biện huyện Quảng Điền đem về nhốt tại đình làng Bác Vọng Đông. Nhân dân quanh vùng thuộc hai huyện Quảng Điền và Hương Trà lập tức ủng hộ cuộc nổi dậy của cha con Đặng Huy Cát, Đặng Hữu Phổ. Đến giữa tháng 8-1885, cha con Đặng Huy Cát và nhiều chỉ huy nghĩa quân khác bị rơi vào tay giặc, lực lượng khởi nghĩa nhanh chóng tan rã [15].

Vào những năm đầu của thể kỷ XX, Thừa Thiên Huế từng bước chuyển mình bởi hoạt động của các sĩ phu yêu nước tiến bộ. Đây cũng là khoảng thời gian vùng đất này gắn với thời niên thiếu của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Do điều kiện học tập và làm việc của thân sinh Nguyễn Sinh Sắc mà Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành (Chủ tịch Hồ Chí Minh) có dịp sinh sống và học tập ở chốn Kinh thành.

Năm 1895, ông Nguyễn Sinh Sắc vào Huế dự kỳ thi Hội nhưng không đỗ. Để chuẩn bị cho kỳ thi sau, ông xin vào học trường Quốc tử Giám rồi trở về quê bàn với gia đình, đưa vợ con vào để tiện việc học hành. Nguyễn Sinh Cung lúc đó mới 5 tuổi cùng với anh theo cha mẹ vào Huế.

Năm 1898, do thi Hội lần thứ hai vẫn không đỗ, ông Nguyễn Sinh Sắc đã về Dương Nỗ (Phú Vang) dạy học trong nhà ông Nguyễn Sĩ Độ. Ông mang theo hai con trai Nguyễn Sinh Khiêm và Nguyễn Sinh Cung để trực tiếp dạy dỗ và đỡ gánh nặng cho người vợ (bà Hoàng Thị Loan vẫn ở tại ngôi nhà 112 Mai Thúc Loan). Tại Dương Nỗ, Nguyễn Sinh Cung bắt đầu học chữ Hán, chứng kiến cảnh lao động của những người nông dân ở một làng quê chỉ cách Kinh thành chưa đầy 7 kilômét, chuyên về làm ruộng tuy rất cần cù, chịu khó, một nắng hai sương nhưng cuộc sống vẫn còn quá lam lũ. “Ba cha con ông Cử Sắc được gia đình ông Độ cùng bà con cô bác chăm sóc chu đáo. Ông Cử Nghệ rất bận bịu với các học trò của nhiều lứa tuổi và trình độ khác nhau. Tuy vậy, ông vẫn tranh thủ những lúc đêm khuya thanh vắng để ôn luyện sách vở, quyết đi thi Hội lần nữa” [16].

Kỳ thi Hội khoa Tân Sửu (1901), ông Nguyễn Sinh Sắc thi đỗ Phó bảng. Nguyễn Tất Đạt và Nguyễn Tất Thành (tên mới từ tháng 9-1901) lại theo cha vào Huế sinh sống và học tập. Triều đình cấp cho ông Phó bảng một căn hộ trong Dãy trại để ở (nay thuộc số nhà 47 Mai Thúc Loan). Vài tháng sau, Nguyễn Tất Thành bấy giờ đã 16 tuổi vào học lớp nhì niên khóa 1906-1907 và lớp nhất niên khoá 1907-1908 tại trường tiểu học Pháp - Việt Đông Ba. Kỳ thi Primaire năm 1908, Nguyễn Tất Thành là một trong mười học sinh giỏi nhất của trường tiểu học Pháp - Việt Đông Ba được thi vượt cấp vào lớp đệ nhị niên trung học niên khoá 1908-1909 tại trường Quốc học. Chính trong thời gian học tại Quốc học, Nguyễn Tất Thành đã tích cực tham gia phong trào chống thuế của đồng bào Thừa Thiên Huế.

Phong trào chống thuế Trung Kỳ khởi sự từ huyện Đại Lộc (Quảng Nam) vào đầu tháng 3-1908 chẳng mấy chốc đã phát triển theo kế hoạch ra khắp tỉnh. Từ Quảng Nam, phong trào tiếp tục phát triển ra phía bắc đến Thanh Hóa và xuống phía nam đến Phú Yên.

Tại Thừa Thiên, phong trào bắt đầu khởi phát từ tháng 4-1908 tại một số làng thuộc huyện Phú Vang và Hương Thủy.

Theo Châu bản triều Duy Tân, Nguyễn Hàng Chi (thường gọi là Khóa Nối), người xã Ích Hậu, tổng Phù Lưu, huyện Can Lộc (Hà Tĩnh), là người có quan hệ với lãnh đạo phong trào chống thuế ở Quảng Nam đã lãnh nhiệm vụ đi phát động phong trào ở các tỉnh từ Thừa Thiên trở ra. Trong vụ chống thuế, ông viết thông tri gửi đi các nơi và đến Huế để cùng giới sĩ phu tiến bộ ở đây phát động phong trào. Thông tri của Nguyễn Hàng Chi có đoạn như sau:

“Giặc Pháp mượn tiếng bảo hộ, ngược đãi dân ta thật đã quá lắm. Hàng năm nộp xong sưu thuế rồi, mình không còn chiếc áo lành, bụng không được ăn cơm no, đi nơi khác tìm ăn, khổ hết chỗ nói. Nếu không một phen đứng dậy tỏ tình kêu nài thì sưu thuế hẳn còn tăng mãi. Dân ta mười nhà đã chín nhà rỗng không, khó lòng gánh chịu được. Nếu cứ ngồi mà đợi chết, chi bằng vùng dậy để tìm lối sống” [17].

Những lời lẽ kích động như thế được viết và dán ở đình chợ Hôm và am miếu dọc hai bên bờ sông Vân Dương.

Cũng như ở các tỉnh khác, kế hoạch của phong trào chống thuế ở Thừa Thiên là tụ tập dân chúng kéo lên huyện rồi từ đó tiến vào Huế, biểu tình trước Tòa Khâm sứ và Phủ Thừa Thiên.

Tuy nhiên, sự phát triển của phong trào ở Thừa Thiên không thuận lợi như ở Quảng Nam vì Huế là trung tâm chính trị của Trung Kỳ. Chính quyền bảo hộ và Nam triều không thể để cho biến động ở Huế kéo dài, ảnh hưởng đến uy thế chính trị và có thể khuyến khích nhân dân các tỉnh khác đấu tranh mạnh hơn. Phong trào ở Huế lại phát khởi sau Quảng Nam gần một tháng nên chính quyền ở Huế đã chuẩn bị kế hoạch để đối phó ngay từ lúc mới khởi sự.

Ngày 9-4-1908, tại bãi cát Sa Trung thuộc làng Diên Đại, nằm giữa hai huyện Phú Vang và Hương Thủy, nơi thuận tiện cho việc tập hợp nhân dân các làng Dạ Lê Chánh, Vân Thê, Dưỡng Mong, Hà Trung, Mộc Trụ, đoàn người đã kéo lên Huế theo đường chợ Sam và được dân chúng các làng lân cận tham gia ngày càng đông.

Hay tin nhân dân nhiều làng tụ họp và kéo nhau lên huyện, một đoàn quan quân do Phủ doãn Trần Trạm, Tri huyện Phú Vang Bùi Hữu Chí và Phó quản Trần Phán cùng một số lính tập liền đi hiểu dụ. Đoàn quan quân đến chợ Hôm thuộc làng Công Lương thì gặp nhân dân. Tại đây, đoàn quan quân đã bị bao vây và Phó quản Trần Phán, Tri huyện Bùi Hữu Chí ra lệnh đàn áp. Một xã dân tên là Nguyễn Cưỡng trúng đạn chết. Dân chúng dùng đất đá đáp trả và xông lên bắt Phủ doãn Trần Trạm để buộc cùng dân đi xin xâu. Tri huyện Hương Thủy vừa đến thì Phạm Toản hô dân bắt trói. Đoàn Thuận cũng huy động dân trói Phó quản và Tri huyện Bùi Hữu Trí, trong khi Lý trưởng Trương Hữu Hoàn cùng Đào Đa chặn đường quan quân ở Vĩ Dạ không cho thoát lên Huế. Trần Phán suýt bị dân đem dìm nước.

Sự việc xảy ra ở làng Công Lương (làng quê của Ấm sanh Lê Đình Mộng, có Lý trưởng Trương Hữu Hoàn rất tích cực và là nơi Khóa Nối Nguyễn Hàng Chi đã nói chuyện về phong trào chống thuế ở Quảng Nam) lập tức lan truyền khắp tỉnh. Ngay đêm mồng 10 rạng ngày 11-4-1908, nhân dân vùng phụ cận đã tụ họp ở các làng Đốc Sơ, Dương Xuân, Đốc Bưu, An Hòa, An Cựu, Diên Đại và vùng sau núi Ngự Bình để tờ mờ sáng tiến vào Huế theo từng nhóm nhỏ. Địa điểm tập hợp là trước Tòa Khâm sứ. Hộ lý Bộ Lại De la Susse yêu cầu dân chúng hãy giải tán để chờ Khâm sứ cùng Nam triều có thời gian thẩm xét các yêu cầu của dân chúng và nếu không chịu giải tán, triều đình sẽ dùng biện pháp mạnh để đối phó, nhưng đoàn biểu tình vẫn cương quyết ở lại để chờ quyết định của Tòa Khâm sứ. Thế là cuộc đàn áp bằng gậy gộc bắt đầu. Vào lúc đó, một toán dân làng Công Lương đã gánh Phủ doãn Trần Trạm trả về tỉnh. Thế là đoàn biểu tình kéo về phía Phủ Thừa Thiên.

Qua ngày 12-4, số người tham gia biểu tình càng đông hơn. Họ chia nhau tụ họp trước Tòa Khâm, Phủ Thừa Thiên và trước một số dinh thự khác. Bị đàn áp, họ tỏa ra vùng phụ cận để rồi trở lại Huế vào ngày hôm sau.

Đoàn biểu tình của nhân dân hai huyện Phú Vang và Hương Thủy bị lính chặn lại ở Vĩ Dạ. Người ta thấy trong những người dẫn đầu có mặt Lê Đình Mộng, Phạm Toản, Đoàn Thuận, Đào Đa và Lý trưởng làng Công Lương Trương Hữu Hoàn. Ban chỉ huy Pháp ra lệnh nổ súng giải tán làm một số người chết và bị thương, rồi cho lính về làng Công Lương để giải thoát cho bọn quan quân bị bắt trước đây. Chúng lục soát làng và bắt đi 35 người.

Phong trào chống thuế ở Thừa Thiên không xảy ra nhiều ngày như ở các tỉnh khác nhưng mức độ quyết liệt và thủ đoạn đàn áp có phần mạnh hơn. Các quan chức không tích cực trong việc đàn áp thì bị cách chức như Phủ doãn Trần Trạm, Chánh tổng An Cựu Hồ Giảng.

Trong phong trào chống thuế ở Thừa Thiên, Nguyễn Tất Thành lúc bấy giờ đang học ở trường Quốc học đã tham gia, làm thông ngôn cho đoàn biểu tình trước Tòa Khâm sứ. Sau sự kiện này, ông Nguyễn Sinh Huy bị cấp trên khiển trách vì “hạnh kiểm của hai người con ở trường Quốc học, đã nói trước mặt thầy giáo những lời bài Pháp trong dịp dân chúng biểu tình”. Thư ký riêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là Vũ Kỳ kể lại: “Trong cuộc biểu tình chống thuế của nhân dân Thừa Thiên Huế năm 1908 Bác Hồ đã tham gia tích cực. Người nhận làm phiên dịch, nhưng phiên dịch của Người không thụ động. Khi đồng bào đưa yêu sách chưa đúng mức thì Người đưa vào cho đúng để đối chọi với Pháp. Khi Pháp nói gì làm cho uy thế đồng bào kém đi thì Người nói thêm để dấy lên tinh thần đấu tranh của đồng bào” [18].

Chính quyền Nam triều đã trở thành công cụ của thực dân Pháp khi vua Thành Thái bị buộc phải thoái vị, nhường ngôi cho Hoàng tử Vĩnh San mới 7 tuổi (tức vua Duy Tân, ngày 5-9-1909). Sau đó, do mưu sự khởi nghĩa bất thành, vị vua yêu nước Duy Tân đã bị đày sang đảo Réunion cùng với phụ thân ngày 3-11-1916. Những ông vua bù nhìn làm tay sai được thực dân Pháp dựng lên (Khải Định và Bảo Đại).

Năm 1926, Varenne sang làm Toàn quyền Đông Dương, cho thực hiện một vài cải cách để mị dân, thay đổi một vài cơ quan không có thực quyền. Tại Thừa Thiên, chúng chuyển Hội đồng Tư vấn Trung Kỳ thành Viện Nhân dân đại biểu Trung Kỳ.

Đại biểu được bầu vào Viện dân biểu phải là Chánh, Phó tổng, Chánh phó hương hội, viên chức, người có bằng Tiểu học trở lên. Một số trí thức tiến bộ ứng cử làm nghị viên với ý thức đại diện cho dân, dùng diễn đàn nghị viện để bênh vực dân đã đắc cử, trong số đó có Huỳnh Thúc Kháng, Lê Văn Huân, Hoàng Đức Trạch. Tại kỳ họp đầu tiên, Viện trưởng Huỳnh Thúc Kháng đã trình bày hết thảm trạng trong dân gian giữa nghị trường. Sau kỳ họp, Tòa Khâm sứ lại tự tiện sửa biên bản, đã bị Viện trưởng cực lực phản đối.

Trong đại hội thường niên năm 1928, một diễn văn quan trọng của Viện trưởng đã vạch trần những luận điệu giả dối của bọn thực dân và nêu những yêu cầu cần thực hiện cho người dân ngay trước mặt Toàn quyền Varenne và các nhân viên của chính quyền Nam triều. Bài diễn văn đề cập đến một số nội dung thiết yếu trước mắt, trong đó nói rõ: “Tài nguyên cạn kiệt do chính sách bóc lột tận xương tủy của chính quyền bảo hộ, mỗi năm đến kỳ thuế trong dân chạy sấp chạy ngửa, trống mõ om sòm, gông cùm hò hét, tình thiệt là rắc rối. Vậy nên ngay bây giờ phải áp dụng phương kế đánh thuế những vật xa xỉ, thuế sưu nên định một cách nhất định” [19].

Diễn văn của Viện trưởng đã nói lên nguyện vọng và yêu cầu bức thiết của nhân dân Trung Kỳ. Jabouille - đại diện của Toàn quyền Đông Dương đã bác bỏ tất cả đòi hỏi bức thiết của dân và không còn che đậy bộ mặt dân chủ giả hiệu nữa. Y phỉ báng, hăm dọa các đại diện của nhân dân, dẫn đến việc Huỳnh Thúc Kháng dứt khoát từ chức nghị viên, nghị trưởng.

Dưới ách thống trị của thực dân Pháp và phong kiến, cuộc sống của người nông dân trong khắp cả 6 huyện thuộc tỉnh Thừa Thiên rơi vào cảnh bần cùng, đói khổ.

Ruộng đất công làng xã chiếm 70-80 % đất đai canh tác trong toàn tỉnh, tồn tại dưới dạng ruộng làng, ruộng họ, ruộng phái. Nhưng từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1914-1918), chính sách ruộng đất của thực dân Pháp làm cho ruộng công mất dần và trở thành ruộng tư. Ruộng công phần thì bị triều đình lấy phong cấp cho quan lại, phần thì địa chủ cường hào chiếm đoạt hoặc làng cho bán đấu giá. Chính vì thế mà nông dân thiếu ruộng đất nghiêm trọng. Tại huyện Phú Lộc, chỉ một số ít quan lại nhưng chiếm đến 40% diện tích canh tác của huyện. Làng Vĩnh An (Phong Điền) đem 7 mẫu 6 sào ruộng công cầm cố cho ấp Khúc Lý lấy 950 đồng để cứu tế năm 1931. Cũng làng Vĩnh An, năm 1933, nhà nước lập bộ điền đã xin cải 30 mẫu ruộng hương hỏa của 12 họ thành ruộng tư. Tháng 10-1918, làng Nguyệt Biều (Hương Thủy) bán 2 mẫu 4 sào cho một nhà kỹ nghệ người Pháp. Lý trưởng làng Thanh Thủy Thượng (Hương Thủy) lấy 31 mẫu 4 sào ruộng của làng cho thuê, và bắt dân góp ruộng khẩu phần. Ở Sịa (Quảng Điền) năm 1929, quan lại về làng tranh nhau ngôi thứ để giành ruộng quân cấp tốt hơn.

Những hiện tượng trên đã dẫn đến ruộng công ít dần và nông dân ngày càng ít ruộng cày cấy. Do thiếu ruộng, nông dân đành cấy rẽ ruộng của địa chủ và phải nộp đến 50% sản phẩm thu hoạch được.

Trong quá trình khai thác nông nghiệp, chính quyền thực dân đã chú ý đến việc khai thác đồng bằng ven biển, quy hoạch đắp đập ngăn mặn để có nước ngọt làm ruộng. Ngày 24-3-1929, chính quyền thực dân cho khởi công đắp đập Thuận An. Viên Khâm sứ Trung Kỳ, quan Phụ chính và Thượng thư bộ Công đã tham gia đặt đá tại cửa Thuận An, làm lễ động thổ khởi công công trình đập ngăn mặn.

Tuy nhiên, trong những năm khủng hoảng kinh tế 1929-1933, nông nghiệp Thừa Thiên cũng bị sa sút. Báo Tiếng Dân đã phản ánh: “Trung Kỳ năm nay đã mang phong triều lộn xộn, gia dĩ vì kinh tế khủng hoảng. Hiện nay trời hạn, nhiều nơi cày cấy chưa xong, người dân bản xứ đau buồn”. Nhiều nông dân bỏ ruộng đồng đến các công trường đá làm thuê cho Pháp.

Dân cư Thừa Thiên Huế theo thống kê của Pháp năm 1921 có 290.000 người, trong đó có 146.000 nam và có 144.000 nữ, cư trú trong 469 xã thuộc 31 tổng, 6 huyện và một thị xã [20]. Mật độ trung bình 62 người/km2. Mười năm sau, vào năm 1931, dân số Thừa Thiên Huế là 291.000 người (chỉ tăng 1.000 người).

Thành phần cư dân Thừa Thiên Huế khác với các nơi, bao gồm tầng lớp quan lại có đặc quyền đặc lợi, hoàng tộc triều Nguyễn, địa chủ ở nông thôn ngồi mát ăn bát vàng, công nhân (bộ phận cư dân mới hình thành cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, đa số xuất thân từ nông dân, một phần xuất thân từ thợ thủ công), tiểu tư sản trí thức (gồm những viên chức trong bộ máy hành chính Nam triều, bộ máy hành chính Trung Kỳ, giáo chức và học sinh các trường) và nông dân - bộ phận chiếm số đông nhất trong cư dân Thừa Thiên Huế. Nông dân là đối tượng bóc lột chủ yếu của thực dân phong kiến, là nạn nhân trực tiếp của chính sách bần cùng hóa của thực dân Pháp. Phu phen, tạp dịch, thuế má đè nặng lên cuộc sống của họ. Hàng năm mỗi dân đinh ở Trung Kỳ phải đi làm xâu không công 10 ngày (quy định bởi đạo dụ của vua Thành Thái ngày 8-1-1904). Muốn tăng ngân sách, chính quyền thực dân chỉ việc tăng thuế. Mức thuế cứ tăng lên mãi, ngoài định suất còn thêm phụ thu. Ở Trung Kỳ, tất cả người đàn ông Việt Nam từ 18 đến 60 tuổi phải chịu mức thuế thân kể từ ngày 1-1-1929 là 2,5 đồng, nhưng có phụ thu 20%, thành ra 3 đồng (so với 2,2 đồng trước đó theo dụ của vua Thành Thái về chế độ thuế thân ở Trung Kỳ ngày 14-8-1898). Năm 1932, lại tăng mỗi suất thuế thân 0,5 đồng. Như vậy là thuế thân cứ tăng, người nông dân cứ è cổ mà chịu, không chịu nổi thì bỏ quê hương bản quán đi phu đồn điền cao su, đi phu lục lộ để cuối cùng bỏ xác nơi rừng thiêng nước độc, nơi đất khách quê người.

Chương trình khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp đã tác động tiêu cực đến cuộc sống của mọi người dân Việt Nam, trong đó có nhân dân Thừa Thiên Huế. Ở thành thị cũng như nông thôn, họ đều sống trong nỗi nhục mất nước. Người Tây có thể đánh đập, cướp bóc người Việt Nam bất kỳ ở đâu và bất cứ lúc nào. Báo Tiếng Dân phản ánh: “Hai người Tây vào nhà một bà già nghèo mua 2 con gà giá 0,60 đồng mà chỉ đưa 0,20 đồng, buộc phải lấy. Bà già khóc lóc xin thêm, các quý ông hăm dọa rồi lên xe cút mất”. Những cảnh tượng như vậy xảy ra hàng ngày. Đó là cuộc sống tủi nhục của người dân mất nước.

Nông dân là đối tượng bóc lột chủ yếu của thực dân, phong kiến, là lớp người chịu đựng mọi thiệt thòi, cày thuê cuốc mướn với giá công 0,1đ một ngày hoặc vài bát gạo, còn cấy rẽ thì phải nộp địa tô cho chủ ruộng đến một nửa số thu hoạch. Cùng với thiên tai thường xuyên hàng năm đe dọa mùa màng là nạn sưu cao, thuế nặng, tạp dịch liên miên.

Người dân Hương Trà đã nói về tạp dịch ở địa phương họ như sau: “Dân làng chúng tôi, ai cũng phải đi canh. Đi canh không được miếng nước của nhà giàu, đồng xu nào của làng, mà còn phải chịu nhiều điều trách phạt nặng nề oan uổng, đau đầu khổ óc. Vậy nên dân chúng tôi buộc phải nộp tiền cho đỡ đi canh, có khi nộp cả tháng. Dân chúng tôi chân lấm tay bùn, dầm mưa dãi nắng, cơm rau chưa đủ ăn, áo quần không đủ ấm mà còn phải lo cho ai để chịu thiệt thòi”.

Tình hình kinh tế - xã hội trên đây đã ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc vận động cách mạng giải phóng dân tộc ở Thừa Thiên Huế, dẫn đến việc tiếp thu con đường cứu nước theo cách mạng vô sản, tạo nên những chuyển biến mới trong đấu tranh.

Sau khi tìm được con đường cứu nước theo cách mạng vô sản, Nguyễn Ái Quốc ra sức truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam. Phương tiện đầu tiên chuyển tải tư tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc về Việt Nam là báo Le Paria (Người cùng khổ) bằng tiếng Pháp. Báo ra số 1 ngày 1-4-1922 do Nguyễn Ái Quốc làm chủ nhiệm kiêm chủ bút. Ngay từ số đầu đã có 200 tờ được chuyển về Việt Nam và một số đến Thừa Thiên Huế.

Đối với giới thanh niên và học sinh Huế, Nguyễn Ái Quốc được coi là lãnh tụ tương lai và nhiều người đã xuất dương đi tìm Nguyễn Ái Quốc. Họ bắt đầu biết đến Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên. Tháng 7-1927, phái viên của Tổng bộ Thanh niên Vương Thúc Oánh đã tuyên truyền và kết nạp Nguyễn Đức Tịnh, Phó Đức Trực, Lê Dung vào tổ chức Thanh Niên, đồng thời thành lập Tỉnh bộ lâm thời Thanh niên ở Huế do Nguyễn Đức Tịnh làm Bí thư.

Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên hoạt động chủ yếu là tuyên truyền tổ chức hội viên và huấn luyện cán bộ. Sách báo có nội dung tuyên truyền, giáo dục lòng yêu nước xuất hiện ở Thừa Thiên Huế ngày càng nhiều tuy rằng chúng bị thực dân Pháp ra lệnh cấm lưu hành. Song song với các tài liệu công khai tuyên truyền lòng yêu nước, còn có các tài liệu bí mật tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin. Đó là báo Thanh niên, báo Kông nông và tác phẩm Đường kách mệnh của Nguyễn Ái Quốc. Ngoài ra, những thông tin về phong trào cộng sản và tư tưởng cách mạng vô sản còn được phản ánh công khai trên báo Tiếng Dân trong những năm 1928-1929 với các bài viết của Võ Nguyên Giáp.

Cùng với việc tuyên truyền qua sách báo, hội viên Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên còn rải truyền đơn trên đường phố, dán trên thân cây các tờ áp phích. Đối với những người mù chữ, không thể tuyên truyền bằng sách báo được thì tiến hành tuyên truyền bằng miệng. Các hội viên Thanh niên đi vào quần chúng cùng ăn ở, cùng làm việc để tuyên truyền thông qua các câu chuyện hàng ngày rồi dẫn dắt họ đến với lý tưởng cách mạng. Kết quả là một số cơ sở của Tỉnh bộ Thanh niên được xây dựng và nâng tổng số hội viên lên khoảng 20 người.

Trên con đường xây dựng lực lượng cách mạng, Thừa Thiên Huế còn được sự quan tâm của cấp trên. Năm 1928, Kỳ bộ Thanh niên Trung Kỳ cử thêm 3 người tăng cường cho Tỉnh bộ Thừa Thiên Huế. Tỉnh bộ sau đó đã cử Nguyễn Đức Tịnh tham dự Đại hội Đại biểu Thanh niên Trung Kỳ họp tại Huế vào tháng 3-1929.

Bên cạnh tổ chức Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên, vào giữa năm 1927 tổ chức Tân Việt cách mạng Đảng ở Huế được hình thành với những đảng viên như Đào Duy Anh, Võ Liêm Sơn, Trần Hữu Duẫn, Phạm Văn Đại, Nguyễn Chí Diểu, Nguyễn Khoa Văn, Nguyễn Hoàng. Các đảng viên Tân Việt đã đi gây dựng cơ sở và phát triển đảng viên ở các huyện Hương Thủy, Phú Vang và Phú Lộc.   

Với sự ra đời của tổ chức Thanh niên và Tân Việt, công tác truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin được đẩy mạnh hơn, dẫn đến việc hình thành tổ chức Đảng Cộng sản ở Thừa Thiên Huế, lãnh đạo sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng Tổ quốc. Với tinh thần yêu nước sâu sắc và truyền thống đấu tranh bất khuất, nông dân Thừa Thiên Huế tiếp tục đi theo Đảng, cùng với các tầng lớp xã hội khác làm cuộc cách mạng đổi đời, giành quyền làm chủ quê hương, đất nước, xây dựng cuộc sống mới no đủ hơn.



[1] Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê, Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, bản dịch của Hoàng Văn Lâu. Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội, 2000, tr 427.

[2] Dương Văn An, Ô châu cận lục. Hiệu đính và dịch chú: Trần Đại Vinh - Hoàng Văn Phúc. Nxb Thuận Hóa, Huế, 2001, tr 68-69.

 

[3] Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục. Bản dịch của Đỗ Mộng Khương, Nguyễn Trọng Hân, Nguyễn Ngọc Tỉnh. Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2007, tr 438. 

[4] Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục. Bản dịch của Đỗ Mộng Khương, Nguyễn Trọng Hân, Nguyễn Ngọc Tỉnh. Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2007, tr 173. 

 

[5] Lê Quý Đôn, Phủ biên tạp lục. Bản dịch của Đỗ Mộng Khương, Nguyễn Trọng Hân, Nguyễn Ngọc Tỉnh. Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội, 2007, tr 171. 

[6] Cao Xuân Huy, Thạch Can (chủ biên), Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm, tập II. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1978, tr 119-120.

[7] Nguyễn Thế Anh, Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn. Nxb Lửa thiêng, Sài Gòn, 1971, tr 96.

 

[8] Nguyễn Thế Anh, Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn. Nxb Lửa thiêng, Sài Gòn, 1971, tr 96.

[9] Nguyễn Thế Anh, Kinh tế và xã hội Việt Nam dưới các vua triều Nguyễn. Nxb Lửa thiêng, Sài Gòn, 1971, tr 103-104.

[10] Đơn vị tiền tệ triều Nguyễn gồm 3 loại là “quan”, “tiền” và “đồng”. Một quan có 10 tiền, 1 tiền có 60 đồng.

[11] Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (chính biên), tập 33. Nxb Kha học xã hội, Hà Nội, tr 70.

[12] Nguyễn Văn Hoa (chủ biên), Địa chí Thừa Thiên Huế - Phần Lịch sử. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2005, tr 235.

 

[13] Hoàng Anh, Quê hương và cách mạng. Nxb Thuận Hóa, Huế, 2001, tr 29-30.

[14] Báo Tiếng Dân, số 864, năm 1935; số 875, năm 1935; số 953, năm 1936.

 

[15] Nguyễn Văn Hoa (chủ biên), Địa chí Thừa Thiên Huế - Phần Lịch sử. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2005, tr 238-239.

[16] Tiểu ban Nghiên cứu lịch sử Đảng Tỉnh ủy Nghệ An, Hồ Chí Minh thời niên thiếu. Nxb Nghệ An, 1999, tr 13.

[17] Nguyễn Hữu Châu Phan, Phong trào kháng thuế Thừa Thiên Huế năm 1908. Tập san Nghiên cứu Huế, tập I, 1999, tr 28.

[18] Bảo tàng Hồ Chí Minh Thừa Thiên Huế, Di tích, địa điểm di tích lưu niệm Bác Hồ và gia đình Người ở Thừa Thiên Huế. Nxb TH, H, 2001, tr 128.

[19] Nguyễn Q Thắng, Huỳnh Thúc Kháng - con người và văn thơ. Phủ Quốc vụ khanh đặc trách văn hóa, Sài Gòn, 1972, tr 107.

 

[20] Số liệu của năm 1910 như sau: huyện Hương Trà có 6 tổng (Phú Xuân, Hương Cần, An Ninh, Phú Ốc, Long Hồ và Vĩnh Trị), 103 làng và 8.823 đinh; huyện Quảng Điền có 5 tổng (Thanh Cần, Khuôn Phò, Phước Yên, Hạ Lang và An Thành), 64 làng và 7.229 đinh; huyện Phú Vang có 6 tổng (Ngọc Anh, Dương Nỗ, Mậu Tài, Kế Mỹ, Sư Lỗ và Quảng Xuyên), 100 làng và 7.928 đinh; huyện Phong Điền có 5 tổng (Phò Trạch, Vĩnh Xương, Chánh Lộc, Phò Ninh và Hiền Lương), 48 làng và 6.303 đinh; huyện Hương Thủy có 8 tổng (Võng Nhi, An Cựu, Dã Lê, Lương Điền, An Nông, An Cư, Lương Văn và Cư Chánh), 127 làng và 8.807 đinh; huyện Phú Lộc có 1 tổng là Diêm Trường với 15 làng, 695 đinh (Nguyễn Đình Đầu. Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn - Thừa Thiên. Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1997, tr 68-73).

Các tin khác
Xem tin theo ngày  
Thống kê truy cập
Truy cập tổng 5.793.213
Truy cập hiện tại 282